bolac-a4-forever
bolac-a4-forever
bolac-a4-forever
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


Diễn đàn của lớp 10a4.Diễn đàn dành cho bạn bè,chia sẻ và học tập ,...
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Diễn đàn của lớp 10a4 kết nối với tất cả mọi người

 

 Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase

Go down 
Tác giảThông điệp
V.I.P

V.I.P


Tổng số bài gửi : 164
Points : 364
Join date : 19/11/2010
Age : 28
Đến từ : thiên đường

Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  Empty
Bài gửiTiêu đề: Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase    Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  I_icon_minitimeFri Nov 19, 2010 8:34 pm

CHƯƠNG 1
Chuông điện thoại nội bộ réo.

Chick Barley đang nhâm nhi li thứ hai buổi sáng, nghe tiếng chuông điện thoại anh rót thêm một chút uytky nữa, miệng lầu bầu chửi tục, rồi ấn nút.

Tiếng Glenda Kerry the thé trong máy:

- Bảo Dirk tới gặp đại tá ngay, mà nhanh lên đấy!

Đoạn cô ta cúp máy. Chick nhìn tôi, lúc đó đang ngồi ở bàn làm việc:

- Cậu đã nghe mụ ta nói rồi đấy. Thật không thể chịu nổi. Khi mà một mụ đàn bà…

Không đợi nghe hết câu tôi đã lao ra khỏi phòng, chạy thục mạng dọc theo cái hành lang rộng mênh mông dẫn tới văn phòng của đại tá Victor Parnell.

Của đáng tội, tôi mới vào làm việc cho “Hãng thám tử tư Parnell” được đúng một tuần. Đây là một hãng nổi tiếng nhất và cũng đắt giá nhất của vùng bờ biển Đại Tây Dương này. Nó được đặt trên tầng cuối cùng của tòa nhà Truman, đại lộ Paradise, thành phố Paradise, bang Floridạ Hãng chủ yếu phục vụ đám khách hàng giàu có và chịu chơi và tôi vẫn còn chưa hết cảm giác thán phục trước bầu không khí sang trọng toát ra từ nơi này.

Nguyên là một cựu chiến binh trong cuộc chiến tranh Việt nam, đại tá Parnell nhờ vào số tài sản được thừa kế từ người cha, đã lập ra hãng này khoảng năm năm trước và ngay lập tức đã nổi tiếng khắp vùng. Hãng có hai mươi thám tử nguyên là các nhân viên cảnh sát hoặc quân cảnh, làm việc theo từng nhóm hai người. Tôi thế chỗ cho một người trong số họ và thật may mắn được làm việc cùng với Chick Barley, nguyên là một trung úy quân cảnh, một anh chàng to con với mái tóc hung và được xem là điều tra viên giỏi nhất của Parnell.

Tôi đúng là may mắn được tuyển vào làm việc ở đây, vì số người đệ đơn xin vào có cả đống. Tôi kiếm được chỗ này chỉ bởi vì trước kia cha tôi có giúp ông Parnell một việc gì đó. Chính xác là việc gì thì tôi không bao giờ biết, nhưng đại tá thì không quên.

Trong suốt ba mươi năm, cha tôi đã lãnh đạo “Hãng điều tra Wallace” ở Miami, chuyên về các vụ ly hôn. Học xong, tôi vào làm nghề điều tra viên cho cơ quan này khoảng mười năm. Cha tôi đã truyền cho tôi tất cả các ngón nghề mà ông biết, nghĩa là chả thiếu một thứ gì. Nhưng rồi mệt mỏi vì tuổi tác, ông quyết định xin nghỉ hưu. Hãng lâm vào tình trạng khó khăn, có lúc nó chỉ còn có ba người cộng với tôi. Khi cha tôi về hưu, tôi trở thành điều tra viên duy nhất, nhưng thực tế cũng chẳng có gì mà làm. Đúng lúc đó đại tá Parnell lại đang tìm một người thay thế cho một gã điều tra viên vừa mới bị phát hiện là một tên lừa đảo. Cha tôi bèn viết thư cho ông nói rằng sẽ không tồi nếu ông nhận tôi vào chỗ đó. Cuộc hội kiến đã diễn ra khá suôn sẻ và từ đó đến nay tôi làm cho hãng Parnell.

Ban đầu, trong một tuần lễ tôi cùng với Chick lo về vụ trộm tại một trạm bán xăng tự động. Đó là một công việc chẳng có gì thích thú, nhưng đối với các điều tra viên thì các công việc loại như vậy thường gặp như cơm bữa, chẳng hạn như theo dõi một bà vợ hoặc một ông chồng, tìm người mất tích hoặc đại loại như vậy. Để trở thành một thám tử giỏi cần phải có tính kiên nhẫn, bền bỉ và óc tò mò. Tôi có đủ các phẩm chất đó và thêm vào đó còn có nhiều hoài bão nữa.

Đại tá Parnell cộng tác rất chặt chẽ với cảnh sát ở Paradise Citỵ Nếu nghi ngờ một vụ nào đó có dấu hiệu tội phạm, Parnell sẽ báo ngay cho Terrel, chánh cảnh sát thành phố. Về phần mình, Parnell cũng nhận được sự hợp tác đầy đủ từ phía cảnh sát, một điều hết sức quan trọng đối với điều tra viên.

Những người giàu có thường giao cho hãng những công việc rất hệ trọng mà cảnh sát không bao giờ nghe nói tới: những vụ tống tiền, các cô tiểu thư bỏ trốn theo những gã cầu bơ cầu bất, những cặp vợ chồng nghiện ngập, những chàng công tử đồng tính luyến ái và đủ thứ linh tinh khác. Những vụ việc này được giữ tuyệt mật và chính ở đây Parnell đã hốt bạc. Những gia đình giàu có thường tới tiết lộ với ông những chuyện kín như thế với điều kiện phải giữ bí mật hoàn toàn. Chính Chick đã cho tôi biết điều đó. Anh bảo tôi, rồi một ngày nào đó cậu cũng sẽ được nâng bậc vì đã giúp những người giàu có che đậy được những vấn đề của họ.

Tôi gõ cửa phòng Parnell, đứng đợi một lát, rồi bước vào một căn phòng rộng, bày biện tiện nghi hoàn toàn trái ngược với căn phòng chật chội, tối tăm và ảm đạm của cha tôi trước kia.

Ông đang đứng ngắm biển và hàng cây số bãi biển qua chiếc cửa sổ lớn nhìn ra đại lộ Paradisẹ Thấy tôi vào, ông quay lại.

Parnell là một người đàn ông cao lớn, tuổi trạc lục tuần. Gương mặt phong sương đỏ au, đôi mắt xanh nhỏ tinh anh và cái miệng khinh khỉnh như nhắc nhở mọi người đừng bao giờ quên rằng ông đã từng là một người lính.

- Dirk hả? Vào đây và ngồi xuống đi, - Ông nói.

Ông bước lại gần bàn làm việc và thả cái thân hình đồ sộ của mình xuống chiếc ghế phôtơi cũng vĩ đại không kém.

- Thế nào, cháu đã bắt đầu quen chưa?

Tôi rụt rè ngồi xuống mép ghế. Đứng trước Parnell bao giờ tôi cũng cảm thấy nhút nhát. Ngay cả Chick, người đã từng làm việc nhiều năm với Parnell, cũng phải thú nhận rằng trước mặt Parnell anh ta cũng trở nên mất tự chủ.

- Thưa bác, cháu đã quen rồi, - tôi nói.

- Chick có nói với bác là cháu làm việc rất tốt. Mà cũng phải thôi. Cha cháu đã từng là một thám tử tuyệt vời. Cháu đã được đào tạo ở một môi trường tốt.

- Cám ơn bác.

- Bác có một việc định giao cho cháu đây. Cháu hãy đọc cái này đi. - Ông nói và đẩy về phía tôi một bức thư đặt trên bàn.

Nét chữ trong thư nguệch ngoạc, giấy viết nhom nhem cứ như được đặt viết trên một mặt bàn bẩn thỉu.

Ngõ Cá Sấu

West Creek,

Thưa Đại tá Parnell,

Khi con trai tôi chết trận, ngài đã có lòng tốt cho tôi biết cháu đã hy sinh trong hoàn cảnh nào và còn cho tôi biết ngài đã đề nghị cho cháu được truy tặng Huân chương Danh dư.

Tôi được biết rằng hiện ngài đang có một hãng thám tử tư ở Paradise City, gần nơi tôi sinh sống. Tôi cần một thám tử. Đứa cháu nội tôi vừa bị mất tích. Cảnh sát khu vực chẳng quan tâm gì tới chuyện này. Tôi nhất định phải biết cháu tôi hiện nay ra sao. Tôi gửi kèm theo đây một trăm đôla cho thám tử tìm giúp tôi cháu bé. Tôi không thể trả cho ngài nhiều hơn, nhưng tôi trông cậy vào sự giúp đỡ của ngài vì những gì con trai tôi đã làm cho trung đoàn của ngài.

Xin chân thành cám ơn ngài.

Fredrick Jackson

Qua Glenda Kerry, người cùng với viên kế toán Charles Edwards chịu trách nhiệm về tài chính của hãng, tôi được biết rằng hãng chỉ tiếp nhận những khách hàng có thể đặt cọc không dưới năm ngàn đô và chi ngay trước một ngàn đôlạ Tôi nhíu mày nhìn Parnell.

- Đúng thế, - Ông nói khi đoán được ý nghĩ của tôi. - Đôi khi chúng ta vẫn nhận được những bức thư yêu cầu thám tử như thế này từ những người không có tiền. Và Glenda đều đã từ chối khéo. Nhưng lần này thì khac, - Ông ngắt lời để châm một điếu xìgà rồi nói tiếp - Cháu có nghe nói về Mitch Jackson không?

- Thưa bác có.

Cái tên này cho tôi một khái niệm lờ mờ về một điều gì đó, nhưng cụ thể là gì thì tôi không biết.

- Mitch Jackson vốn là hạ sĩ quan trong cơ quan tham mưu của bác. Bác chưa bao giờ từng biết một người lính như vậy. (Parnell nheo mắt vẻ nghĩ ngợi). Một tay tuyệt vời. Cực kỳ hiệu quả và dũng cảm. Chính vì thế mà chúng ta phải giúp đỡ cha cậu ấy, Dirk ạ. Chúng ta sẽ nhận một trăm đôla của ông ta và sẽ làm tất cả những gì có thể cho ông ấy. Cháu hiểu chứ?

- Vâng, cháu hiểu.

- Cháu sẽ hoàn toàn lo vụ này. - Parnell nhìn tôi với con mắt nhà binh và nói tiếp. - Cháu sẽ tới gặp ông già và cố gắng biết được điều gì làm cho ông ta lo lắng như vậy. Hãy cư xử với ông ấy như với một nhân vật quan trọng, cháu hiểu chứ?

- Cháu hiểu.

- Cháu hãy đi tìm hiểu và về báo cáo cho bác. Có các chi tiết trong tay, ta mới xem có thể sẽ làm được gì. Cháu sẽ lên đường ngay sáng mai. (Ông nhìn xoáy vào mắt tôi). Đây là cơ hội để cháu chứng tỏ khả năng của mình. Cháu hiểu chứ? (Ông ném tờ một trăm đô xuống bàn). Đây là tiền chi phí cho cháu.- Và với một nụ cười tinh quái, ông nói thêm. - Và cấm không hé một lời nào với Glenda đấy. Nếu biết bác nhận lời một khách hàng chỉ trả có một trăm đô cô ta sẽ tức điên lên mất.

- Vâng, thưa bác.

- Tốt lắm. Đừng có lề mề, chúng ta không có nhiều thời gian đâu, nhưng bác muốn vụ này phải được giải quyết.

Nói đoạn, ông ra hiệu cho tôi có thể đi. Tôi trở về văn phòng cùng ngồi chung với Chick. Anh đang nghiên cứu tập hồ sơ dày cộm về các nhân viên của trạm bán xăng tự động mà chúng tôi đã cùng nhau điều trạ Thấy tôi, anh ngước mắt lên:

- Có gì mới không?

Tôi ngồi xuống ghế và kể lại toàn bộ câu chuyện.

- Mitch Jackson à? (Anh huýt một tiếng sáo dài). Một gã cực kỳ đấy! Hồi làm tham mưu trưởng cho đại tá, mình đã từng làm việc với hắn. Mình không hề biết hắn có vợ kia đấy. Chắc hắn đã cưới trong tháng nghỉ phép. Hắn chưa bao giờ kể về chuyện này cả. (Chick nhìn tôi với vẻ trầm tư). Đại tá có kể cho cậu hắn đã bị chết như thế nào không?

- Không

- Đó là một bí mật quân sự. Nhưng tốt nhất là cậu nên biết để không nói hớ trước mặt ông già hắn. Và nhớ giữ kín đấy.

- Hắn đã chết thế nào?

- Một trò nhầm lẫn kinh điển của quân đội ấy mà. Người ta gửi một đội tuần tra gồm hai mươi người vào một khu rừng rậm bị nghi là có Việt cộng. Nguyên do là trước đó có quá nhiều người bị những tay súng phục kích bắn hạ, làm cho việc tiến quân bị chậm trễ. Đội tuần tra do một hạ sĩ già chỉ huỵ Họ có nhiệm vụ rà soát khu rừng và phát hiện quân phục kích. Các đơn vị còn lại của trung đoàn đợi trên ngọn đồi. Tổng hành dinh lúc đó biết rằng trung đoàn đã bị bao vây. Mitch rất muốn tham gia trong đội tuần trạ Hắn là kẻ chỉ thích hành động, nhưng lần này đại tá không cho hắn đi. Đội tuần tra vừa mới đi vào rừng thì bộ tham mưu cho biết rằng các máy ném bom vừa mới cất cánh để thiêu hủy cánh rừng bằng bom napan. Một thằng chó chết ở lực lượng không quân đã không đếm xỉa đến thông báo của đại tá về đội tuần tra vừa mới đi vào rừng và cứ cho máy bay ném bom cất cánh. Lúc đó đã quá muộn để gọi họ quay trở lại. Mitch lập tức nhảy lên một chiếc xe jeep và phóng đi. Đại tá hét gọi hắn quay lại, nhưng hắn chỉ nghĩ tới hai mươi đồng đội và không gì có thể giữ được hắn. Hắn phóng như bay và ít phút sau chiếc xe đâm vào một gốc cây. Hắn bỏ xe chạy bộ, vừa chạy vừa hét gọi những người trong đội tuần tra quay lại. Mười bảy người quay lại kịp ra khỏi rừng đúng lúc máy bay bắt đầu rải bom napan. Người ta thấy Mitch trở về cùng với họ. Nhưng đột nhiên hắn dừng lại và chợt thấy rằng còn thiếu ba người. Hắn ra lệnh cho mười bảy người vừa được cứu sống trở về ngọn đồi, còn mình hắn quay lại rừng. Cánh rừng lúc đó đã bốc cháy và đám cháy mỗi lúc một lan rộng. Đó là một hành động cực kỳ điên rồ nhưng cũng cực kỳ dũng cảm mà tôi không bao giờ muốn thấy lại.

- Rồi sau đó thì sao?

- Mitch đã chết, sau khi cứu sống được mười bảy mạng người. Phần xương thịt còn lại của hắn chỉ đựng đầy một cái túi du lịch. May mà còn tìm được chiếc vòng thép ghi số hiệu chúng tôi mới biết rằng đó chính là xác hắn.

- Thế còn ba người kia?

- Chẳng còn gì. Trừ mấy mẩu xương và dăm ba mẩu thịt đã cháy thui. Điều tệ hại nhất là trong rừng lại chẳng có một tên Việt cộng nào. Họ đã rút từ lâu trước khi chúng tôi đến. Viên tướng không quân bị thuyên chuyển. Đại tá vẫn làm ầm ĩ cả lên nhưng cấp trên đã buộc ông phải im tiếng. Ông đòi phải truy tặng Mitch huân chương Danh dự. Và người ta đã tuyên dương công trạng của Mitch là đã cứu sống được mười bảy đồng đội và bị Việt cộng bắn hạ trong lúc dẫn mọi người thoát ra khỏi ổ phục kích. (Chick nhún vai). Dù sao thì đối với ông già hắn điều này cũng ít khủng khiếp hơn là sự thật.

- Cám ơn anh đã cho tôi biết chuyện này. Tôi sẽ chú ý khi nói chuyện với ông già hắn.

Chick kéo tập hồ sơ về phía mình.

- Chà, mình rất muốn biết ông già hắn là người thế nào. Nếu như giống ông con thì phải coi chừng đấy!

Sáng hôm sau, với một chiếc vali nhỏ và tấm bản đồ tỉ lệ lớn, tôi lên đường tới West Creek trên chiếc ôtô của hãng. Mặc dù phần lớn thời gian tôi sống ở Florida, nhưng vùng này đối với tôi hoàn toàn xa lạ. Theo bản đồ tôi biết rằng West Creek nằm cách hồ Placid về phía bắc vài cây số. Tôi cũng đã xem một cuốn sách hướng dẫn du lịch và biết rằng dân cư của West Creek chỉ có năm mươi sáu người, sống chủ yếu bằng nghề nuôi ếch. Vào mùa đông, việc đánh bắt khó khăn, giá ếch tăng vọt. Các nhà hàng xịn ở vùng bờ biển này đều có những khách hàng nặng túi rất thích món ếch.

Sau khi chạy gần ba tiếng, tôi cho xe dừng lại ở Searle, một làng phát đạt chuyên trồng cà chua, hạt tiêu, khoai tây và cách West Creek chừng vài cây số. Bữa sáng chỉ có một ly cà phê, nên bây giờ tôi cảm thấy đói cồn cào. Vả lại, chuyện vãn với dân nhậu thường là rất hữu ích đối với cánh điều tra viên chúng tôi trước khi tiến hành điều tra tại chỗ.

Tôi bước vào một quán ăn sạch sẽ, ngồi vào một bàn ở cạnh cửa sổ nhìn ra một đường phố lớn đậu kín xe tải chất đầy rau quả.

Một cô gái tiến lại gần và mỉm cười chào tôi. Cô bé khá xinh, tóc vàng, mặc quần bò bó và chiếc áo phông còn bó chặt hơn nữa.

- Anh gọi gì ạ? - Cô ta hỏi và chống tay lên bàn làm nổi rõ bộ ngực dưới làn áo mỏng.

- Có món gì đặc sản không? - Tôi hỏi và cố nén để không thọc một ngón tay vào ngực cô ta.

- Có món thịt gà rán. Không phải loại gà chết già đâu.

- Thôi được. Món ấy hợp với tôi đấy.

Tôi nhìn theo cô gái nhún nhảy đôi mông xinh nhỏ đi vào bếp. Chà, ở cái nơi khỉ ho cò gáy như Searle này mà cũng có những cô bé khêu gợi gớm.

Tôi nhận thấy trong quán còn có một ông già, vóc dáng cao lớn với hàng ria rậm muối tiêu, trạc bảy mươi tuổi. Ông ta mặc bộ complê đã cũ sờn, bẩn thỉu và nhàu nát.

Ông ta nhìn tôi, tôi mỉm cười và gật đầu đáp lại. Ông nhìn tôi như thăm dò khá lâu, rồi cầm cốc tiến đến bàn tôi.

- Chào vị khách lạ. - Ông nói và ngồi xuống ghế. - Ở cái xó rừng này hiếm lắm mới thấy một gương mặt lạ.

- Cháu lang thang qua đây chơi thôi mà. - Tôi đáp. - Cháu đang nghỉ hè.

- Thật thế à? (Ông uống một ngụm). Ở đây có khối thứ hay để xem. Ngày xưa đây là khu nuôi cá sấu. Mà bây giờ ở sông Peace cũng vẫn còn.

- Cháu đã xem cá sấu ở Everglages rồi. Hay lắm.

Cô gái đưa đến món gà rán và đặt uỵch xuống trước mặt tôi. Rồi cô quay lại nhìn ông già.

- Ông gọi gì thì gọi đi hay chỉ ngồi cho nóng ghế?

- Thì chả gọi là gì đây, - Ông già nói và giơ chiếc cốc lên. - Giá tôi trẻ hơn mười tuổi chắc tôi sẽ mời cô một thứ khác kia.

- Thì cứ nói là ba mươi tuổi đi, đã chắc gì tôi màng tới. - Cô gái cười gượng đáp rồi nhún nhảy bỏ đi.

Ông già lắc đầu:

- Bọn trẻ bây giờ không còn coi người già ra gì.

Tôi đã định nói bọn trẻ bây giờ chẳng có lý do gì phải tôn trọng người già, nhưng kìm lại được. Dây vào những chuyện như thế này chẳng có ích lợi gì.

Tôi bèn tấn công món gà rán.

- Xứ cá sấu, - Ông già lại lên tiếng. - Anh có nghe về Platt cá sấu không? Không à? Mà phải, anh còn quá trẻ mà. Ở đây có cả một truyền thuyết kia đấy.

Tôi gặm sái cả hàm, đúng là con gà chết già.

- Truyền thuyết?

- Phải. Anh biết không. Platt nấp trên bờ, đợi cho cá sấu nổi lên mới lao xuống quần nhau với nó. Anh ta xiên con cá và chọc hai ngón tay vào mắt nó. Không bao giờ trật cả, nhưng phải khỏe và gan lắm mới làm được như vậy. Hắn ta nói rằng bắn chết một con cá sấu, tốn một viên đạn.

- Đó là chuyện xưa rồi, - tôi đáp.

- Chỉ có duy nhất làm được chuyện đó. Nhưng rồi một hôm, điều bất hạnh đã xảy ra. Platt, chính anh ta, lại chết trên giường, nhưng ông già Fred Jackson thì mất trọn cặp giò.

Trong các cuộc điều tra, đôi khi nhờ chuyện vãn mà tôi vớ được cả mỏ vàng. Nhưng chưa bao giờ lại nhanh như lần này.

- Fred Jackson? – tôi thản nhiên hỏi. - Có phải là bố của Mitch Jackson, người hùng ở Việt nam không?

Ông già chằm chằm nhìn tôi.

- Chính thế. Làm sao anh biết Fred sống ở đây?

- Thì cháu có biết đâu. Chính bác vừa cho cháu biết đấy chứ.

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông.

- Mà cháu còn chưa biết tên bác, tên cháu là Dirk Wallacẹ Bác làm nghề gì ạ?

- Silas Wood. Rất hân hạnh được làm quen với anh. Thế anh làm nghề gì?

- Cháu làm cho một hãng.

- Một hãng? Hãng nào vậy?

- Cháu đang đi tìm tư liệu cho các nhà văn.

Xem ra có ấn tượng lắm.

- Thật thế không? Bác thì đã về hưu rồi. Bây giờ trồng cà chuạ Nhưng cạnh tranh khiếp quá. Bác bán sạch rồi.

- Bác Wood này, thế ông Fred mất cặp giò trước hay sau khi con ông ấy chết?

Câu hỏi của tôi có vẻ như làm cho ông già ngạc nhiên. Ông lấy tay vuốt chiếc mũi dài ngoằng của mình vẻ nghĩ ngợi.

- Vì anh đã hỏi, - cuối cùng ông già cũng trả lời. - Fred mất cặp giò khi Mitch còn là một thằng nhóc. Bây giờ ông ấy chắc cũng phải ngoài bảy mươi rồi. Mitch phải chăm sóc bố cho tới lúc nó nhập ngũ. Lúc đó Fred đã quen sống thiếu cặp giò rồi. Ông già đi nạng mà xoay xở giỏi ra phết, lại còn chiếm quán quân về câu ếch và kiếm ăn cũng khá lắm.

- Bác có biết rõ về Mitch không?

- Rõ quá đi ấy chứ! (Ông già lại vuốt chiếc mũi dài). Ở cái xó xỉnh này ai mà chẳng biết thằng Mitch. Không ai lại nghĩ rằng nó lại trở thành anh hùng. Đúng là không thể xét đoán bọn trẻ được. Thì như con bé vừa nãy đấy. Nó có thể lấy chồng giàu sang, nhưng không bao giờ là anh hùng dân tộc được. Tôi cầm chắc như vậy.

- Mitch là đứa cứng đầu lắm à?

Ông già uống nốt ly rượu rồi buồn bã nhìn chiếc ly rỗng không.Tôi hiểu ý cầm cốc ra hiệu cho cô gái đang đứng tựa ngực vào quầy nhìn chúng tôi.

Cô ta mang rượu tới và đặt trước mặt ông già.

- Đây là ly thứ hai và cũng là cuối cùng đấy nhé. - Cô gái nhìn tôi nói tiếp. - Ông ta không chịu nổi tới quá hai ly đâu, đừng có thử.

Nói đoạn, cô ta lại quay trở lại quầy, Wood nhìn tôi vẻ tinh quái.

- Tôi đã nói với anh rồi đấy. Bọn trẻ không còn coi người già ra gì.

- Cháu hỏi bác có phải Mitch là thằng cứng đầu lắm phải không?

Tôi đã đánh vật xong với đĩa gà quay, và mừng là mình đã ăn xong. Hàm mỏi nhừ.

- Cứng đầu ấy à? Thế là còn ít. Phải nói nó là thằng quỷ sứ mới đúng. - Wood uống một ngụm rồi nói tiếp. - Lúc nào hắn cũng có chuyện với cảnh sát. Trong vòng một cây số không có đứa con gái nào được yên với hắn. Một thằng ăn trộm và chuyên bắn trộm thú rừng. Tôi không thể nói chắc nó đã ăn cắp bao nhiêu cà chua của tôi và bao nhiêu con gà, con ếch của những người khác đã biến mất. Cảnh sát biết mười mươi Mitch la kẻ trộm. Nhưng hắn ma lanh lắm. Rồi lại còn chuyện đánh lộn nữa chứ. Thường thì tối nào hắn cũng kiếm chuyện cãi cọ với ai đó trong làng. Hắn chỉ thích đấm đá thôi. Một hôm có bốn thằng cậy đông xông vào đánh Mitch. Người ta đã phải đưa cả bốn đứa vào bệnh viện. Tôi không dây với hắn. Thực ra tôi cũng sợ hắn. Mà chả phải tôi, cảnh sát cũng ngán hắn. Cả làng đều thở phào khi hắn nhập ngũ và khỏi phải nhìn thấy nó nữa. - Ông già ngừng nói và làm thêm một ngụm nữa. - Và rồi nó được nhận huân chương Danh dự, nó có quyền được tha thứ và người ta cũng quên chuyên cũ đi. Bây giờ cả làng tự hào về nó. Ấy là tôi nói người ta xá cho quá khứ ấy mà.(Ông nháy mắt với tôi). Khối đứa con gái khóc suốt đêm khi nghe tin hắn chết đấy. Chỉ cần hắn búng ngón tay một cái là khối con bé dạng chân ra.

Tôi chăm chú nuốt từng lời của ông già.

- Thế cha hắn có giống hắn không?

- Fred ấy à? Không. Ông ta là một người lao động trung thực. Cục tính nhưng đàng hoàng lắm. Khi bị mất cặp giò tính nết ông lão thay đổi hẳn. Trước kia ông ấy hay xuống làng tán gẫu với bạn bè. Sau này thì tịt hẳn. Ông không muốn gặp bất cứ ai. Ông vẫn đi bắt ếch với Mitch, nhưng không bao giờ xuống làng và tiếp đón rất cục cằn những ai tới thăm. Bây giờ cũng vậy, tuổi cao rồi ông ấy vẫn đi bắt ếch. Một tuần một lần người ta đến mua rồi chở đi. Ông già chỉ ăn thỏ và cá. Dễ đến hơn mười năm tôi chưa gặp ông ta.

- Thế còn mẹ Mitch? Bà ấy còn sống không?

- Tôi không biết. Mà cũng chẳng ai biết. Người ta đồn rằng có bà khách du lịch tới thăm và chụp ảnh Fred cùng các con cá sấu. Ấy là tôi nói hồi ông ta còn trẻ cợ Chuyện đàn bà con gái chắc ông ta cũng như thằng Mitch thôi. Chuyện thật hư thế nào tôi không biết, chỉ biết rằng vào một hôm đẹp trời, người ta thấy Fred bế một đứa bé trên taỵ Ai đó đã bỏ nó trước túp lều của ông tạ Đó là thằng Mitch sau này. Ấy là ở Searle này người ta đồn như vậy. Fred nuôi thằng bé chật vật lắm, nhưng ông ấy cũng cho nó ăn học hẳn hoi. Và sau khi mất cặp giò, Mitch đã nuôi sống ông tạ Từ đó Mitch chăm sóc ông già cho tới tận khi nó biết chạy theo lũ con gái. Đó là lời khen duy nhất tôi có thể nói về nó. Nó ngưỡng mộ Fred, điều này thì không ai có thể nghi ngờ.

- Hay đấy chứ. - Tôi nói.

- Đúng như vậy. Người ta đã nói nhiều về chuyện này khắp làng. Một anh hùng dân tộc. Đào đâu ra ở những làng nhỏ như làng chúng tôi. Rồi ông ta lại có một đứa cháu nội nữa chứ.

Tôi làm ra vẻ không mấy quan tâm.

- Con trai của Mitch?

- Đúng vậy. Mà cũng ly kỳ lắm. Đâu như chín năm trước, có một thằng bé ghé qua đây. Nó khoảng tám chín tuổi gì đấy. Tôi còn nhớ là đã gặp nó tới. Trông cứ như một thằng lang thang vô gia cự Bẩn thỉu, tóc tai bù xù, giày rách tướp. Nó xách một chiếc vali cũ xộc xệch chằng bằng dây. Tôi thương thằng bé quá. Tôi vốn yêu trẻ mà. Tôi hỏi nó tới đây làm gì. Nó trả lời lưu loát lắm. Nó bảo nó đi tìm Fred Jackson, ông nội của nó. Tôi sững cả người. Rồi tôi chỉ cho thằng bé nhà của ông nó. Thằng bé xem chừng đói lả đến nơi, tôi mời nó ăn sáng cùng, nhưng nó lịch sự từ chối và nói rằng nó muốn gặp ông nó càng sớm càng tốt. Đúng lúc đó chiếc xe tải nhỏ của Josh, viên bưu tá, chuẩn bị chạy. Tôi nhờ anh ta chở giúp thằng bé. Hồi đó Mitch đang tại ngũ. Làm sao mà ngờ có chuyện như thế này, thế là cả làng đàm tiếu um cả lên. Rồi thầy giáo làng đến gặp Fred. Trái với thông lệ, lần này ông giáo được Fred đón tiếp rất tử tế. Rốt cục, Johnny Jackson cũng được đến trường. Nó xuống đây học bằng xe đạp.

- Thế Johnny co giống cha nó không?

- Chẳng giống một tẹo nào. Thằng bé người nhỏ nhắn, xinh trai, tính tình điềm đạm, lịch sự và có lẽ hơi ủy mị, nhưng học rất giỏi. Những đứa con trai khác không thích chơi với nó. Nó không thích giao du và không bao giờ nói về Mitch. Khi bọn trẻ hỏi, nó đáp rằng nó không hề biết bố nó. Nó ra đời sau khi bố nó sang Việt nam. Khi người ta thông báo rằng Mitch đã chết và được trao huân chương, thằng bé không đến trường nữa. Khi ấy nó mới mười bốn tuổi. Thầy giáo làng đến tìm gặp Fred, nhưng ông đã đuổi ra, không tiếp. Từ đấy đã sáu năm rồi, không ai còn gặp thằng bé nữa. Tôi chắc thằng bé khốn khổ không chịu nổi đã chuồn rồi. Mà làm sao nó có thể sống nổi cơ chứ? Cái lão Fred ấy nhiếc móc thậm tệ lắm. (Wood uống cạn ly, buông một tiếng thở dài, rồi lấy chiếc đồng hồ bạc cũ kỹ ra xem giờ). Thôi đã đến lúc tôi phải đi rồi. Bà vợ tôi nấu bữa trưa nóng sốt chắc đã đợi tôi cả tiếng rồi. Về muộn quá bà ấy lại càu nhàu. (ông đứng dậy bắt tay tôi). Chúc anh một kỳ nghỉ hè vui vẻ. Hy vọng sẽ gặp lại. Rồi ta sẽ có dịp lai rai với nhau.

Sau khi ông già đi khỏi, tôi ra hiệu cho cô hầu bàn mang cà phê tới. Lúc này rất đông cánh lái xe tải vào ăn trưa. Không một ai để ý đến tôi. Về phần mình , tôi cũng chỉ quan tâm tới thổ dân ở đây mà thôi.

Cô gái mang cà phê tới.

- Anh đừng có tin lời lão già ấy, - cô gái nói và đặt tách cà phê lên bàn. - Lão ấy lẩm cẩm rồi. Mà lão nói gì với anh vậy?

- Về Mitch Jackson ấy mà.

Gương mặt cô gái sáng lên vẻ xúc động.

- Anh ấy mới là đàn ông, một người đàn ông đích thực. (Cô ta nhắm mắt lại rồi thở dài). Mitch đã mất sáu năm rồi, nhưng ở đây ai cũng còn nhớ anh ấy. Em chỉ gặp anh ấy có một lần, hồi còn bé, nhưng không bao giờ quên được.

- Nhưng ông Wood có nói với tôi rằng hắn là thằng quỷ sứ. Nhưng tôi nghĩ một người đã được huân chương Danh dự chắc là tuyệt vời lắm.

Tôi nói vậy chẳng qua bởi vì cứ theo nét mặt hân hoan của cô ta, tôi hiểu rằng đối với cô Mitch còn hơn cả Elvis Presley đối với hàng triệu thanh niên.

- Thì đúng quá đi chứ! Ai có thể nghĩ rằng thằng con trai anh ấy lại ẻo lả như vậy.

Tôi nhấm nháp ly cà phệ Đúng là một ngày may mắn của tôi.

- Thật thế ư?

- Tất cả bọn con gái ở trường đều chạy theo nó, vì Mitch là bố nó. Nhưng nó lẩn như thỏ. Đúng là đồ thỏ đế!

Một tay lái xe hét gọi món ăn. Cô gái nhăn mặt rồi chạy đi. Tôi vừa nhâm nhi ly cà phê vừa ngẫm nghĩ lại những điều mình vừa biết được. Theo Wood, thì từ khi biết tin Mitch tử trận, người ta không nhìn thấy thằng bé nữa. Cũng theo ông già thì mọi người trong làng đều nghĩ Johnny bỏ đi rồi. Chuyện này thì quả thật mình không hiểu. Nếu thằng bé đã biến mất từ sáu năm trước thì tại sao bây giờ Fred Jackson mới viết thư nhờ Parnell tìm hộ sau một thời gian dài như vậy?

Tôi quyết định phải biết thêm thông tin trứơc khi tới Ngõ Cá Sấu. Tôi ghi chép vắn tắt rồi bước ra đường phố náo nhiệt. Tôi nhìn quanh và thấy một tấm biển đề:

MORGAN & WEATHERSPOON

Món đùi ếch tuyệt hảo

Tôi chợt nhớ Fred Jackson chuyên bắt ếch. Biết đâu ở chả kiếm được ít thông tin. Theo hướng chỉ của mũi tên, tôi đi dọc theo một con đường nhỏ tới ngôi nhà có treo biển:

MORGAN & WEATHERSPOON

Chuyên bán ếch - Mời vào

Mùi tanh tưởi xộc ra từ bên trong hàng rào gỗ cao khiến tôi suýt nôn mửa. Tôi đẩy cửa bước vào một cái sân rộng đậu đầy những chiếc xe tải mui trần. Xe nào cũng xếp đầy những chiếc thùng tôno, từ đó vọng ra những tiếng rột roạt.

Ở phía đối diện là một toà nhà bêtông. Phía sau một cửa sổ lớn tôi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo blu trắng ngồi làm việc. Tôi bước lên bậc tam cấp, mở cửa và bước vào một căn phòng nhỏ có điều hoà nhiệt độ. Tôi phải khép ngay cửa lại để không cho mùi tanh từ sân lọt vào.

Người đàn ông niềm nở đón tôi. Ông ta chạc bốn mươi lăm tuổi, gầy gò với mái tóc đen lưa thưa và nét mặt tiều tụy.

- Tôi có thể giúp gì ông đây? - Ông ta đứng dậy hỏi và chìa tay cho tôi. - Tôi là Harry Weatherspoon.

- Tôi là Dirk Wallace, - tôi nói và bắt tay Harrỵ - Thưa ông Weatherspoon, tôi muốn phiền ông ít phút, và tôi hy vọng là ông không từ chối.

Nụ cười nở rộng trên môi, nhưng đôi mắt sắc lạnh của ông ta nhìn tôi có vẻ lo lắng.

- Hiện thời thì tôi có thời gian, ông Wallace ạ. Một nửa giờ nữa thì tôi có việc bận, nhưng bây giờ tôi còn phải ăn trưa. Mời ông ngồi và cho tôi biết ông có chuyện gì.

Chúng tôi cùng ngồi xuống.

- Tôi hiện làm cho một hãng chuyên thu thập thông tin cho các nhà văn và nhà báo, - tôi lặp lại trò ngụy trang đã khá thành công cho đến lúc này. - Nhiệm vụ của tôi là chỉ cung cấp các sự kiện. Còn họ thì khai thác và kiếm bạc triệu đấy. Tôi thì chẳng xơ múi gì. (Tôi cười buồn). Hiện tại tôi đang điều tra về Mitch Jackson, vị anh hùng dân tộc của chúng ta cùng với những con ếch và cha anh tạ Một tạp chí lớn đề nghị viết một bài báo về Mitch.

Người đàn ông gãi cái đầu đã hói tới gần đỉnh

- Còn có gì mới nữa đâu. Người ta đã viết hết rồi còn gì.

- Ông là người biết mọi chuyện, ông Weatherspoon ạ. Nhưng tôi muốn đề cập vấn đề này dưới một góc độ khác.

Người đàn ông nhún vai.

- Về ếch thì tôi có thể nói chuyện thoải mái với ông, nhưng Mitch thì tôi chưa gặp bao giờ. Vả lại, theo những chuyện mà người ta đồn đại về anh ta, thì tôi cũng chẳng lấy đó làm thiệt. Thôi ta nói về những con ếch vậy. Chắc ông đã ngửi thấy mùi rồi chứ? Rồi cũng phải quen thôi. Loài ếch có mùi rất tanh tưởi và nó sống ở những chỗ cũng chẳng thơm tho gì. Nhưng đùi ếch thì bán hơi bị đắt. Riêng tôi thì tôi chẳng thú cái món này, nhưng nhiều kẻ giàu có lại rất khoái. Đây là cả một nền công nghiệp phát đạt đấy. Chúng tôi thu gom ếch từ những người nuôi, sơ chế rồi đem bán cho các khách sạn.

Ông ta ngả người vào lưng ghế và cứ theo cái điệu bộ hùng hồn của ông ta tôi hiểu những con ếch quý giá với ông ta tới mức nào.

- Tất nhiên khâu khó khăn nhất là đánh bắt, - Ông ta nói tiếp, - Nhưng may đó không phải là nhiệm vụ của tôi. Fred Jackson là người cung cấp chính cho chúng tôi trong vòng ba mươi năm quạ Không chỉ về số lượng đâu, mà cả chất lượng nữa. Khốn nỗi bây giờ chúng tôi không thể trông cậy vào ông ta được nữa. Ông ta đã già rồi… cũng như tất cả mọi người mà, có phải vậy không ông? (Ông ta lại cười lớn). Còn chuyện nuôi ếch thì thế này: người ta mua hoặc thuê một khoảnh đất có nhiều đầm lầy và ao hồ. Ông già Fred khôn lắm. Ông ta đã mua đất từ đời nào với giá rẻ như bèo. Ếch chỉ sống bằng côn trùng. Những người nuôi ếch như ông già Jackson ném thịt ôi vào đầm lầy. Thịt ôi sẽ thu hút bầy nhặng xanh to kềnh mà ếch rất khoái. Trong khi bầy ếch mải bắt nhặng, người ta cứ ung dung mà chộp ếch. Có thể nói Fred là chuyên gia về khoản này. Nếu thấy việc đánh bắt ban ngày chưa đủ, ông ta cho thắp đèn điện sáng trưng xung quanh khu đầm để thu hút lũ bướm và côn trùng. Ếch cũng ra ăn vào ban đêm, và đây là lúc để bắt chúng. Một con ếch cái ấp từ mười đến ba mươi ngàn trứng một năm. Chín mươi ngày sau, trứng nở ra nòng nọc. Chỉ cần khoảng hai năm là đã có thể xài được. (Ông ta lại cười). Thôi hội nghị xin được kết thúc ở đây.

- Cám ơn ông. - Tôi nói. - Đó đúng là những chi tiết mà tôi cần. (Tôi ngừng một lát trước khi tiếp tục). Nhưng ông lại cho rằng đó chẳng phải là một thiệt thòi gì đối với ông cả, mặc dù anh ta là một anh hùng dân tộc. Ông giải thích điều này thế nào?

Ông ta có vẻ hơi lúng túng và nhún vai.

- Ông Wallace ạ, trứơc hết ông cần biết rằng tôi không phải là người sinh ra ở đây. Cũng phải mất một thời gian người ta mới chấp nhận tôi. Tôi đã mua một số cổ phần của doanh nghiệp với Morgan lúc ông ta về hưu. Ông ta mới qua đời cách đây không lâu. Bây giờ thì mình tôi cai quản doanh nghiệp này. Mitch Jackson quá nổi tiếng ở đây vì đã được tặng huân chương, vì vậy tôi muốn ông đừng trích dẫn lên tôi làm gì. Đối với bọn thanh niên thì hồi ức về anh ta là một điều thiêng liêng, còn những điều tôi nói với ông chỉ là giữa chúng ta với nhau thôi.

- Không sao, - tôi nói. - Tôi sẽ không nhắc gì đến ông nếu ông đã muốn như vậy.

- Đúng là tôi muốn như vậy. (Ông ta nhìn tôi với vẻ nghiêm khắc và nói tiếp). Tôi tới vùng Searle này sau khi Mitch đã chết. Tôi đã được nghe đủ thứ chuyện về anh tạ Bọn trẻ trong vùng sợ anh ta lắm. Theo như họ nói thì anh ta là một thằng du thủ du thực bẩn thỉu. Nhưng khi Mitch được tặng huân chương, thì anh ta đã bước vào truyền thuyết của cả vùng rồi. Bọn con gái khóc như một lũ ngốc. Và bây giờ người ta nói về hắn cứ như là một ngôi sao nhạc pop.

Tôi không nói gì. Hồi còn trẻ thần tượng của tôi là Sinatrạ Tất cả bọn trẻ đều cần phải có thần tượng.

- Nếu ông cần những chi tiết về cá nhân Mitch thì có thể đến hỏi Abe Levị - Weatherspoon nói tiếp. Đó là một trong số những người lái xe tải của tôi chuyên đi thu gom ếch. Ông ta nhận ếch của Jackson từ nhiều năm naỵ (Nói đoạn, Weatherspoon xem đồng hồ). Giờ thì chắc ông ta đang ở nhà chế biến. Ông có muốn nói chuyện với ông ta không?

- Rất sẵn lòng và xin cám ơn ông nhiều, ông Weatherspoon ạ. Một câu hỏi cuối cùng, ông có thể nói gì về Fred Jackson?

Weatherspoon lắc đầu.

- Chẳng có gì để nói cả. Tôi đã gặp ông ta bao giờ đâu. Tôi nghe nói ông ta mất cặp giò vì đánh nhau với cá sấu. Trong thời gian ông ta dưỡng bệnh thì Mitch là người bắt ếch. Sau này ông ta cũng nhúc nhắc đi lại bằng nạng, nhưng sản lượng gần đây giảm đi nhiều. Ở tuổi của ông ấy thế cũng phải thôi. Theo như tôi nghe nói thì ông ấy là một người bủn xỉn nhưng trung thực.

Tôi đứng dậy.

- Tôi sẽ đi gặp Levi ngay bây giờ.

Weatherspoon chỉ tay qua cửa sổ.

- Ông ta ở cái nhà kho lớn kia kìa. Chắc là ông ta đang ăn trưa. (Ông ta cũng đứng dậy). Rất hân hạnh được làm quen với ông, ông Wallace ạ. Nếu ông muốn biết kỹ hơn về những con ếch thì ông đã biết tìm tôi ở đâu rồi đấy.

Chúng tôi bắt tay nhau. Tôi bước ra và ngay lập tức cái mùi tanh tưởi ấy lại vây lấy tôi.

Trong nhà kho mà Weatherspoon chỉ cho tôi có nhiều cô gái da đen đang lột ếch (cảnh tượng và mùi tanh làm cho tôi buồn nôn), và tôi thấy một ông già chừng sáu nhăm tuổi đang ăn món đậu trắng đựng trong một cái vỏ đồ hộp. Tôi không hiểu sao người ta lại có thể ngồi ăn giữa cái mùi tanh khó chịu này. Nhưng ông già bé nhỏ, béo lùn và săn chắc với bộ râu xoăn tít kia xem chừng vẫn bình thản ngồi ăn. Tôi nhắc lại với ông già những điều tôi đã nói với Weatherspoon. Rằng tôi đi thu thập thông tin cho hãng. Ông già cứ vừa ăn vừa nghe tôi nói, rồi ông nhìn tôi bằng đôi mắt xám lấp lánh ánh tinh quái vốn có của những người nghèo khổ.

Đã nhiều năm làm nghề săn tin, tôi thừa hiểu ý nghĩa của cái nhìn đó.

- Ông Weatherspoon có nói với cháu rằng bác có thể cung cấp một số thông tin, - tôi mào đầu. - Tất nhiên cháu không xin không bác. Năm đô, bác thấy thế nào?

Tôi rút ví ra lấy tờ năm đôla và ve vẩy trứơc mặt ông già.

- Năm đô chỉ là bắt đầu thôi. Tùy vào những điều bác nói…

Ông già giật năm đôla từ tay tôi nhanh như con thạch sùng đớp muỗi.

- Đồng ý. Thế anh muốn biết về cái gì?

- Hãy cho cháu biết về Fred Jackson. Hình như bác quen ông ta đã nhiều năm.

- Đúng vậy. Nhưng càng gặp tôi lại càng ít muốn lui tới nhà ông tạ Đó là một lão già độc ác. Đồng ý rằng phần lớn người ta rồi sẽ trở nên xấu tính nếu bị mất đi cặp giò, nhưng Fred thì lúc nào cũng vậy hà.

- Xấu tính ư? Có phải bác muốn nói ông ta là người keo kiệt?

- Tôi không muốn nói thế, mặc dù ông ta đúng là một gã keo kiệt. Ông ta là một kẻ xấu tính. Đó là loại người có thể làm những điều tệ hại ngay cả với người bạn thân nhất của mình một cách bình thản nhất trần đời. Vả lại, ông ta làm gì có bạn. Fred bẩn thỉu chẳng khác gì con trai hắn.

- Nhưng con trai ông ta được tặng huân chương Danh dự kia mà.

Levi nói với giọng đầy bực tức.

- Hắn được tặng là bởi vì hắn là một thằng cục súc, xấu tính và độc ác. Nó lúc nào cũng cắm đầu xông vào bất cứ đâu. Tôi thì cho đó không phải là dũng cảm, mà là ngu ngốc. Cả nhà Jackson đều là những kẻ xấu tính xấu nết. Họ chẳng quan tâm tới ai khác. Đã hơn hai chục năm nay, tuần nào cũng tới nhà lão, nhưng chưa bao giờ cả cha lẫn con mời tôi lấy một lon bia. Chưa bao giờ họ giúp tôi một tay xếp các thùng ếch lên xe. Mà những thùng này có phải nhẹ đâu. Tất nhiên, bây giờ khi Fred mất cặp giò rồi tôi đâu dám nhờ, nhưng khi thằng Mitch đứng ngay đó, nó cũng chỉ nhe răng và trắng dã mắt nhìn tôi làm vã mồ hôi. Trong khi những gia đình nuôi ếch khác ai cũng mời bia tôi, cũng đỡ tôi một tay chất thùng lên xe. Bố con Jackson thì không bao giờ. (Ông già nhìn cái vỏ đồ hộp, vét hết mấy hạt đậu còn sót lại và cho vào mồm). Tất cả cái trò rầm rĩ về chủ nghĩa anh hùng của Mitch làm tôi muốn nôn mửa. Thực ra dân ở đây ai cũng mừng là đã thoát được hắn.

Levi vẫn chưa cho tôi thông tin gì mới hơn so với Weatherspoon.

- Thế bác có gặp thằng cháu nội của Fred không?

- Chỉ một lần duy nhất. Tôi đánh xe tới thì thấy nó đang giặt giũ trong chiếc chậu gỗ nhỏ. Chắc Fred bắt nó làm để trả công đã nuôi nấng nó. Ngay khi thấy tôi, thằng bé chạy tót vào lán và lão Fred liền bước ra. Tôi chưa có dịp nào nói chuyện với thằng bé. Chắc nó đã ngán sống với Fred đến tận cổ nên sau khi nghe tin Mitch chết đã chuồn rồi. Tôi chỉ nhìn thấy nó một lần, mà cũng sáu năm rồi còn gì.

- Chắc bấy giờ nó cũng mười ba mười bốn tuổi rồi.

- Để tôi nghĩ xem nào. Thằng bé gầy gò chẳng giống nhà Jackson tẹo nào. Tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không biết nó có đúng là con của Mitch không. Mitch có kiểu mặt mà người ta thường thấy trong hồ sơ của cảnh sát. Còn thằng bé này có hạng lắm. Bọn trẻ cùng lớp đều phải thừa nhận điều đó. Chúng nói thằng bé này khác biệt với chúng. Chắc là nó giống mẹ.

- Thế bác có biết gì về chị ta không?

- Chẳng có ai biết gì hết. Chắc là đứa con gái nào đó mà Mitch đã chơi bời. Mà lũ này trong vùng có vô khối. Mitch chẳng bao giờ để chúng nó được yên. Nhưng đứa nào thì tôi không biết. Thằng bé có lẽ cũng có tính nết như bố nó. Tôi nhớ là tôi có gặp một đứa con gái ở đó. (Ông già ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu). Nhưng chỉ cách ở đây chừng bốn năm tháng gì đó, rất lâu sau khi thằng bé biến mất.

Cố gắng che đậy vẻ quan tâm của mình, tôi hỏi một cách thờ ơ.

- Bác kể cho cháu về cô bé ấy đi.

- Tôi cũng chỉ nhìn thoáng thấy nó thôi. Nó ngồi giặt bên cái chậu gỗ nhỏ như thằng bé ngày nào. Ngay khi tôi vượt qua chỗ ngoặt, con bé chạy tọt vào nhà. Khi Fred đi ra tội hỏi ông mới có người giúp việc à, ông ta chỉ ậm ừ tỏ vẻ khó chịu. Với ông ta đừng có hy vọng gì hơn. Tôi nghĩ chắc ông ta thuê ở thành phố về thay thế cho thằng cháu. Phải thú thật điều đó khiến tôi càng thêm tò mò. Tôi dò hỏi mọi người, nhưng chẳng ai biết con bé làm việc ở nhà Fred. (Ông già nhún vai). Tôi không bao giờ gặp lại con bé nữa.

- Con bé nhìn thế nào? Chừng bao nhiêu tuổi? Levi liếm chiếc thìa đang giữ trong tay và cho vào túi.

- Nó còn trẻ, mảnh mai với mái tóc vàng thả dài.

- Nó ăn mặc ra sao?

- Quần bò, còn gì nữa thì tôi không nhớ. Có thể thằng Johnny cũng ở đó và lòng thòng với con bé. Fred chắc cáu lắm. Ngày xưa ông ta cũng bực vì những chuyện trai gái của thằng Mitch. (Levi ngừng lời và lại nhìn tôi bằng cái nhìn tinh quái). Anh có quan tâm tới chuyện này không?

- Một câu hỏi cuối cùng. Có vẻ như Mitch là một gã thích cô độc. Hắn không có một người bạn nào sao?

Levi gãi râu.

- Nó cũng có giao du với một thằng du thử du thực như hắn. (Ông già như nhìn vào cõi hư vô). Nhưng tên nó thì tôi quên rồi.

Tôi rút ra một tờ năm đôla nữa nhưng giữ ở ngoài tầm với của Levị Ông già nhìn tờ giấy bạc, gãi đầu rồi gật gật đầu.

- À, tôi nhớ ra rồi. Hắn tên là Syd Watkins. Hắn đăng lính cùng đợt với Mitch. Cả làng đều mừng là cả hai thằng đều đi cho khuất mắt. Cha mẹ nó đều là người tử tế cả. Họ có một cửa hàng thực phẩm ở Searlẹ Nhưng khi người vợ chết, ông ta cũng bỏ luôn. Thiếu bà ấy, ông không thể một mình trông nom cửa hàng được. Thằng Syd thì cả đời không động chân động tay lấy một giờ.

- Thế Mitch là bạn của Syd à?

Ông già nhăn mặt.

- Chuyện đó thì tôi không biết. Chỉ biết bọn nó kết bè hết đảng quậy phá. Khi Mitch gây gổ với ai đó, thằng Syd không bao giờ dây vào. Cứ như nó là cái đầu còn thằng Mitch là chân tay ấy.

- Thế sau chiến tranh Syd có trở về không?

- Không. Thi thoảng tôi có lai rai với ông già nó. Ông già ngày nào cũng chờ tin nó, nhưng đến tận bây giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi. Người ta chỉ biết Syd đã giải ngũ, đã về Mỹ và mất hút. Theo tôi thì chắc nó chẳng làm được điều gì tốt lành đâu.

Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi đưa tờ năm đôla cho ông già.

- Nếu cháu cần điều gì nữa cháu sẽ còn đến gặp bác. – Tôi nói.

Tôi nóng lòng muốn đi ra ngoài mong được hít thở một chút không khí trong lành.

- Bác thường ở đây vào giờ này chứ?

- Ngày nào vào giờ này tôi cũng có mặt ở đây.

- Ông già nói và nhét vội tờ giấy bạc vào túi.

- Nhờ bác chỉ giúp đường đến nhà Fred.

- Anh đi xe hơi à? Ông ta ở cách đây bảy tám cây số thôi à. – Rồi ông ta chỉ dẫn tỉ mỉ đường đi cho tôi. – Coi chừng lão Fred đấy, nghe chưa. Hắn là một kẻ thô tục.

Nhẩm lại những điều vừa biết được, tôi đi tới chỗ đỗ xe và phóng thẳng đến Ngõ Cá sấu. Lúc rẽ đường cái, tôi ngó thấy đồn cảnh sát. Tôi đắn đo không biết có nên vào trình diện hay không. Kinh nghiệm dạy tôi rằng cảnh sát đôi khi rất ghét cánh thám tử thọc mạch vào những chuyện địa phương họ. Nhưng tôi quyết định trước hết phải tới gặp Fred Jackson đã. Chả gì ông ta cũng đã trả tiền cho hãng để tìm đứa cháu nội của ông tạ Biết đâu ông ta chả muốn việc điều tra được giữ kín.

Levi đã báo trước với tôi rằng không có biển chỉ đường đến Ngõ Cá sấu. Ông ta dặn dò phải tìm một con đường nhỏ gần như đã bị các bụi cây che khuất. Sau khi cho xe chạy thật chậm mà không cản trở giao thông tôi đã tìm được chỗ rẽ và cho xe quặt vào một con đường đất ngoằn nghèo trông giống như một con rắn đang quằn quại dẫy chết. Hai bên đường là rừng rậm. Qua được ba cây số, con đường rộng hẳn ra: ở đây các xe tải có thể đợi đi xuống con đường nhỏ dẫn ra đường cái.

Tiếng kêu ỳ ộp của lũ ếch cho tôi biết rằng tôi đã đến gần nhà Jackson. Con đường hẹp dần và đột ngột ngoặt một góc vuông. Tôi cho xe dấn tới. Rồi tôi thấy một căn nhà gỗ, một cái giếng, một cái xô đặt trước cửa, một chiếc ghế băng đặt dưới cửa sổ đóng kín mít và một thùng tônô đựng ếch. Nghĩa là tôi đã tới nơi.

Tôi dừng xe, tắt máy và bấm còi.

Không một động tĩnh gì, ngoài tiếng ỳ ộp của lũ ếch.

Tôi đợi một lát rồi lại bấm còi.

Vẫn im lặng.

Tôi nghĩ chắc là Fred đi bắt ếch và xuống xe. Trời nóng và oi. Không một ngọn gió. Cây cối đứng im phăng phắc. Tiếng ỳ ộp không ngừng của lũ ếch tác động đến thần kinh của tôi. Những âm thanh của chúng phát ra có vẻ gì đó như là của con người. Tôi có cảm giác như nghe thấy tiếng hắng giọng của những ông già. Tôi châm thuốc và tiến hành xem xét ngôi nhà. Nó được xây dựng khá chắc chắn bằng gỗ thông. Xét theo bên ngoài, thì nó gồm một phòng khách và hai phòng nhỏ.

Tôi thấy cửa ra vào hé mở.

Tôi toát mồ hôi: hơi nóng, bản hợp ca của lũ ếch và vẻ cô liêu của ngôi nhà khiến tôi cảm thấy căng thẳng. Nó tạo cho nơi này một bầu không khí bí ẩn rờn rợn.

Tôi tiến lại gần và gõ cửa. Không thấy động tĩnh gì. Sau khi gõ cửa lần thứ hai và chờ đợi một lát, tôi đẩy cửa. Tiếng ken két của những bản lề hen rỉ khiến tôi nhảy lùi lại.

Tôi căng mắt nhìn vào bóng tối đang ngự trị trong căn phòng lớn. Trong phòng đầy những đồ gỗ kềnh càng thường thấy ở những chỗ bán đấu giá mà ngày nay chẳng còn ai mua nữa. Tôi thấy Jackson ngồi lên một chiếc bàn lớn. Chắc chắn là Jackson vì ông già râu ria ngồi đó không có chân. Trước mặt ông ta là một đĩa thức ăn. Tôi không nhìn rõ trong đĩa có món gì vì ruồi đã bâu kín.

Tôi chợt nhìn thấy một con ếch bự đang ngồi đớp ruồi ở mép bàn. Nó giương cặp mắt xanh lóe sáng nhìn, rồi nhảy về phía tôi. Tôi vội cúi người xuống.

Con ếch chạm đất rồi biến mất.

- Ông Jackson…, - tôi vẫn đứng bên ngoài lên tiếng.

Ông già vẫn ngồi bất động.

Mắt tôi giờ đã quen với bóng tối. Tôi bước vào phòng.

- Ông Jackson…

Những con ruồi vo ve bay lên, rồi lại đậu xuống đĩa thức ăn.

Tôi nhìn thấy một dòng máu vẫn rỉ chảy trên mặt Fred và một lỗ đạn ở ngay giữa cái trán cáu bẩn của ông già.

Ông già đã chết, như đứa con trai của ông nhưng bị giết một cách sạch sẽ hơ
Về Đầu Trang Go down
V.I.P

V.I.P


Tổng số bài gửi : 164
Points : 364
Join date : 19/11/2010
Age : 28
Đến từ : thiên đường

Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase    Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  I_icon_minitimeSun Nov 21, 2010 9:38 pm

Chương 2

Tôi dừng xe trước cửa đồn cảnh sát và nhìn xung quanh. Bài trí trong đồn đã quá quen thuộc với tôi. Đó là những cái mà người ta thường thấy trong hầu hết các phim truyền hình: một giá súng, những chiếc còng số tám treo trên móc, hai chiếc bàn văn phòng và ba buồng giam trống vắng.

Bầu không khí trễ nải và buồn tẻ bảng lảng trong đồn như một lớp bụi.

Cảnh sát trưởng Tim Mason, như tấm biển đặt trên bàn cho thấy, ngồi sau chiếc bàn văn phòng lớn, ngay trứơc mặt tôi như Đức Phật ngồi trên tòa sen. Tôi có cảm giác như chỉ có chiếc áo kaki cáu bẩn có gắn ngôi sao cảnh sát và chiếc quần mới giữ được lớp mỡ trên người ông ta không phì ra. Chưa bao giờ tôi gặp một người đàn ông nào béo đến thế. Hơn nữa, nhìn gương mặt đỏ au, với những mạch máu nổi rõ mồn một, đôi mắt vằn đỏ và mồ hôi rỏ ròng ròng trên mặt, tôi biết rằng chắc ông ta đã nốc không dưới một chai.

Ở một chiếc bàn khác là một thanh niên có đôi mắt xanh, trông cứ như anh em sinh đôi của Mickey Rooney vào hồi ngôi sao xinê này còn trẻ. Tấm biển đặt trên bàn anh ta cho biết rằng anh ta là phó cảnh sát Bill Anderson. Mason nhìn tôi bằng con mắt vô hồn. Người phó của ông ta đứng dậy. Anh ta nhỏ con nhưng cơ bắp xem ra săn chắc lắm.

- Tôi giúp gì được ông đây?- Anh ta hỏi với nụ cười còn hơi rụt rè.

Tôi ước anh ta chỉ khoảng hăm hai hăm ba tuổi. Tôi bước hẳn vào phòng và tiến đến gần Anderson.

- Tôi tới để báo cho các ông biết rằng Fred Jackson ở Ngõ Cá Sấu đã bị giết chết. - Tôi nói.

Anh chàng phó cảnh sát nhảy lùi lại cứ như tôi vừa thoi cho hắn một cú vào cằm.

- Anh là ai? - Mason lên tiếng.

Tôi lấy ví, rút thẻ, tiến lại và đặt trên bàn ông ta.

Ông ta cầm chiếc thẻ của tôi bằng bàn tay run run, và phải khá lâu mới đọc xong.

- Mẹ kiếp, lại bốc mùi ruồi nhặng rồi đây. - Ông ta nói với vẻ bực bội. - Tôi là chúa ghét bọn thám tử các anh. Anh làm gì ở vùng chúng tôi?

- Tôi tới để báo cho các ông biết Fred Jackson, ông già nuôi ếch ấy, đã bị giết rồi. - tôi nói thật rành rọt.

Ông ta lại đọc lại những điều ghi trên thẻ của tôi. Rõ ràng là những điều tôi nói chưa lọt đựơc vào bộ não của ông ta.

- Tôi là chúa ghét bọn ruồi nhặng các anh. - Ông ta nhắc lại. - Tôi không muốn có các anh ở đây, rõ chưa. Hãy xéo ngay và đừng bao giờ đặt chân vào cái phòng này nữa, hiểu chưa?

- Tôi báo cho ông biết rằng Fred Jackson đã bị giết rồi. - Tôi vẫn kiên trì cao giọng nói.

Ông ta đứng dậy như một con voi, rồi ì ạch đi vòng qua bàn.

- Bill, cậu hãy lo thằng chó này, - Ông ta nói, - Hãy tống khứ nó đi và đợi tôi một lát.

Tôi cầm lấy thẻ và đưa đến đặt trên bàn của Anderson.

- Lúc nào các anh cũng làm việc như thế này à? - tôi hỏi.

Anderson đu đưa chân, đọc thẻ của tôi rồi nhìn tôi lắc đầu.

- Anh đến thật không đúng lúc, anh Wallace ạ. Bây giờ là lúc sếp phải uống thuốc. Chưa uống xong thì ông ấy chẳng hiểu gì hết.

- Thế không có chai nào ở đây hay sao?

- Ông ấy không thích uống một mình. Về chuyện anh nói, anh đã làm báo cáo chưa?

Khó khăn lắm tôi mới giữ được kiên nhẫn. Tôi tự nhủ: mình đang có việc với lũ chó chết, lại ở nơi khỉ ho cò gáy như thế này.

- Fred Jackson, ông già nuôi ếch ấy, đã bị giết rồi.

Anderson nhảy bật dậy.

- Đúng là tôi nghĩ có nghe ông nói như vậy, nhưng tôi không tin. Anh có chắc không?

- Ông ấy chết rồi. Một viên đạn găm vào đầu. Không có vũ khí ở cạnh ông tạ Nghĩa là ông ấy đã bị ai đó bắn chết.- Tôi vẫn kiên nhẫn giải thích.

- Chính mắt anh đã thấy à?

- Tôi vừa mới ở nhà ông tạ Anh cần phải tới ngay và chở ông ta tới nhà xác. Nhà ông ta ruồi nhặng kéo đến khiếp lắm.

Anderson mặt tái mét và lại ngồi xuống.

- Bị giết! Đây là lần đầu tiên có tội phạm ở đây,- anh ta lẩm bẩm.

- Thì bây giờ có rồi đấy. Nó sẽ làm cho các anh phải thay đổi.

- Lạy Chúa! Tội phạm!

Tôi bắt đầu cảm thấy thương anh tạ Anh ta còn quá trẻ để làm phó cảnh sát. Còn quá ít kinh nghiệm, anh ta chỉ đủ sức giả quyết những vụ trộm cắp, đậu xe chỗ cấm, say rượu, hoặc đôi khi cùng lắm là những vụ cưỡng dâm. Còn một tội phạm thì quả là vượt quá khả năng của anh ta.

- Tôi đề nghị anh trước hết hãy gọi điện cho cảnh sát bang,- tôi nói bằng mội giọng đã dịu đị- Họ sẽ lo hết cho các anh.

Anderson trợn mắt.

- Không được! Mason không bao giờ chịu làm như thế đâu. Ông ấy là cảnh sát trưởng ở đây đã hai mươi năm và không bao giờ gọi cảnh sát bang hết.

- Hoặc là ngay bây giờ hoặc là không bao giờ. Dầu sao anh cũng phải gọi, mà phải gọi ngay lập tức.

Anderson dùng mu bàn tay gãi cằm. Tôi có cảm tưởng như nghe thấy cả tiếng lạo xạo trong bộ Óc đang vật vã suy nghĩ của anh ta và càng cảm thấy thương anh ta hơn. Dẫu sao anh ta cũng nghiêm chỉnh hơn gã sâu rượu kia. Tôi cũng biết rõ rằng nếu cảnh sát bang tới đây và thấy Mason thì cái chức cảnh sát trưởng của y bay là cái chắc.

- Mason sẽ về hưu vào cuối năm nay,- Anderson nói như chính mình.- Ông ấy là một tay cừ khôi, nhưng rượu đã làm hỏng ông ấy. Ở đây ai cũng mến ông ấy. Nhưng nếu cảnh sát bang thấy…

Lại một lần nữa anh ta gãi cằm và nhìn tôi với vẻ tuyệt vọng.

- Tôi đã báo cho các anh rằng ở đây xảy ra một tội phạm,- tôi nói,- Còn các anh muốn làm gì thì tùy.

Anderson lại cầm xem thẻ hành nghề của tôi.

- Anh đang làm việc cho đại tá Parnell à?

- Điều đó đã ghi rõ trên thẻ rồi còn gì.

- Một hãng cực kỳ đấy.

- Đúng vậy.

- Người ta nói với tôi rằng hãng đang kiếm một điều tra viên. Tôi đã viết đơn. (Anh ta lại gãi cằm). Nhưng không may là họ đã kiếm được ai đó rồi. Tôi sẵn sàng trả giá đắt để được làm việc trong hãng của anh. Anh có cho rằng còn có cơ hội không?

- Còn chứ. Tất cả đều phụ thuộc vào nhu cầu công việc. Mà đại tá chỉ tuyển những điều tra viên năng động thôi.

- Lương bổng có khá không, hầy?

- Khá.

- Thế thì thật tuyệt vời nếu tôi được làm việc cho đại tá Parnell. (Anh ta lại gãi cằm và không nhìn tôi. Chắc là đang theo đuổi những ước mơ đầy tham vọng). Tôi đã ngán đến tận cổ cái làng khỉ ho cò gáy này lắm rồi.

- Rồi nó sẽ trở thành nổi tiếng,- tôi nói.- Một tội phạm bao giờ cũng xuất hiện với hàng tít lớn trên trang nhất.

Anderson nhảy phắt dậy, dường như anh ta quên biến là có một tội phạm mà anh ta cần phải giải quyết.

- Đúng vậy, thế mà tôi không nghĩ ra. Lạy Chúa, tôi phải làm gì bây giờ nhỉ?

- Phải gọi điện ngay cho cảnh sát bang trước khi Jackson bị giòi bọ làm cho trương ra.

Anderson tái mặt.

- Không thể được. (Anh ta nhìn tôi vẻ cầu khẩn). Ở địa vị tôi anh sẽ làm gì?

- Nếu tôi không thể gọi cảnh sát bang, tôi sẽ cho gọi xe cấp cứu và một bác sĩ tới đó để xem điều gì đã xảy rạ- Tôi nói.- Mà rốt cuộc anh có tin lời tôi không?

Anh ta mừng rỡ trông thấy.

- Đúng là tôi phải làm như vậy thật,- anh ta nói và với tay nhấc điện thoại.

Trong khi anh ta nói chuyện, tôi đi ra cửa đứng nhìn ra đường phố huyên náo. Tôi có cảm tưởng cứ như mình bị đẩy vào một cuốn phim hoạt hình, nhưng rồi suy đi nghĩ lại tôi thấy rằng giúp Anderson, tôi có thể sẽ nhận được những thông tin lý thú cho bản báo cáo trình đại tá của tôi.

Sau khi đặt máy, Anderson ra cửa đứng với tôi.

- Xe cấp cứu sẽ tới cùng bác sĩ Steed. Ông ấy là bác sĩ pháp y của chúng tôi. (Anh ta nhìn tôi vẻ lúng túng). Ông ấy già rồi, nhưng theo cảnh sát trưởng, thì đó là người quan trọng nhất ở làng này đấy. Anh chắc là thạo về những vụ hình sự lắm nhỉ?

Anh ta rõ ràng tính rằng tôi sẽ trả lời khẳng định và tôi đã không làm anh ta phải thất vọng.

- Chúng tôi làm đủ thứ: tội phạm, tống tiền, bắt cóc… thôi thì chả thiếu thứ gì. Tôi cũng được tham gia nhiều.

Anh ta tỏ vẻ thỏa mãn lắm.

- Tôi rất muốn biết anh có chấp nhận tới đó với chúng tôi không? Anh có thể phát hiện những chi tiết mà chúng tôi có thể bỏ qua.

- Không được đâu. Tôi chắc là ông Mason sẽ không đồng ý. Ông ấy vốn ghét cay ghét đắng cánh thám tử chúng tôi mà. Tôi không muốn kiếm chuyện với ông ấy.

- Anh đừng lọ Ngay khi có tý cay, ông ấy sẽ là một con người khác. Tôi không nói đùa đâu. Mọi chuyện là do anh tới không đúng lúc đấy thôi. Ông ấy sẽ rất mừng nếu được anh giúp đỡ.

- Vậy trước hết, anh hãy đi hỏi ông ấy xem đã. Ông ấy phải tẩy trần trong bao lâu?

- Ông ấy không thể quay về đây trước hai giờ, nhưng khỏi cần phải hỏi ông tạ Khi gặp lại ông ta anh sẽ không nhận ra đâu. Khi uống xong ly uytski Êcốt thường lệ, Mason sẽ là người dễ thương nhất làng này đấy.

Đúng lúc đó chiếc xe cấp cứu cũ rích tới đỗ trước cửa. Có hai người da đen mặc áo blu trắng và một ông già dễ ngoài tám mươi râu tóc đã bạc trắng. Ông già khập khiễng xuống xe và nhìn chúng tôi. Gương mặt ông nhăn nheo như một quả táo héo.

- Đây là bác sĩ Steed,- Anderson giới thiệu với tôi và bước xuống chào ông già.

Tôi đứng đợi để Anderson giải thích mọi chuyện với ông già. Steed nhìn tôi với đôi mắt còn sáng và rất tinh anh.

Tôi bước xuống và bắt bàn tay ông đã chìa sẵn.

- Tội nghiệp ông già Fred Jackson!- Ông nói bằng một giọng nhỏ và rè. Thật kinh khủng! Bị giết hả? Bill đã nói với tôi về anh, anh bạn trẻ ạ. Chúng tôi sẽ rất mừng nếu được anh giúp đỡ. Thường thì chúng tôi phải gọi cảnh sát bang, nhưng chúng tôi muốn tự giải quyết những vụ việc trong làng không để cho người ngoài thọc mũi vào. Chúng tôi sẽ cần đến kinh nghiệm của anh.

- Tôi sẵn sàng hợp tác, nhưng tôi nghĩ nên báo cho cảnh sát bang. Đây là một vụ giết người cơ mà.

Ông già nhìn tôi cười tinh quái.

- Người quyết định chuyện này là tôi, anh bạn trẻ ạ. Ông già Fred không còn mục tiêu sống nữa. Có thể vì thế ông ấy đã quyết định tự kết liễu đời mình.

- Nhưng không có vũ khí ở đó.

- Để rồi chúng ta xem!

Steed khập khiễng đi tới xe cấp cứu và leo lên.

Tất cả dân Searle có mặt trên đường phố đều đứng há hốc mồm nhìn chúng tôi. Thấy xe cấp cứu đậu trước đồn cảnh sát, lại có cả bác sĩ pháp y và một người lạ mặt nữa là điều mới lạ đối với họ.

- Chúng ta lên xe thôi,- Anderson đề nghị.

Tôi cùng với anh ta leo lên chiếc Chevrolet cũ rích và theo sau chiếc xe cấp cứu rẽ lên đường cái lớn.

- Jackson còn họ hàng thân thích không?- Tôi hỏi.

- Có một thằng cháu nội, nhưng không ai biết hiện nó ở đâu. Theo như tôi biết thì không còn ai khác.

- Jackson có báo cho các anh biết về chuyện thằng bé mất tích không?

- Có. Vào khoảng hai tháng trước. Ông ta nhắn qua viên bưu tá rằng ông muốn gặp Mason. Cảnh sát trưởng có lên gặp ông ta, nhưng khi quay về nói với tôi rằng cái lão ấy chỉ gây những chuyện không đâu. Thằng bé chắc đã ngán sống với Fred nên đã bỏ đi, thế thôi. Mason còn nói rằng chuyện đó không đáng làm bận tâm cảnh sát bang. Họ đã có khối kẻ mất tích cần phải tìm kiếm rồi.

- Anh nói rằng Fred báo cho cảnh sát qua người bưu tá. Vậy ra Fred vẫn nhận được thư từ à?

- Chắc là như vậy. Chính xác thì tôi không biết. (Anh quay sang nhìn tôi). Anh nghĩ chuyện đó là quan trọng ư? Ý tôi muốn nói là việc Fred nhận thư có thể cho một đầu mối gì không?

- Có thể. Tôi đơn giản chỉ lấy làm lạ là một ông già sống biệt lập như vậy mà vẫn nhận được thư từ.

- Để rồi tôi hỏi Josh, viên bưu tá của chúng tôi xem.

- Đúng, thư thả rồi anh cứ hỏi xem. Chẳng đi đâu mà vội.

Lúc này chúng tôi đang cho xe chạy theo con đường hẹp dẫn tới nhà Fred. Chiếc xe cấp cứu làm tung bụi mù mịt và Anderson lại bám quá sát.

Khi xe cấp cứu dừng lại trước ngôi nhà, hai người da đen lấy xuống một chiếc cáng rồi mang vào nhà. Tôi cũng xuống xe và tới cửa vào ngôi nhà.

Bác sĩ Steed đã đang đứng trước thi thể của Fred Jackson. Ruồi bay vo ve xung quanh chiếc mũ của ông. Mùi tanh nồng nặc khiến người tôi nôn nao.

- Hãy nhìn đi, anh bạn trẻ,- Ông ta nói và chỉ chiếc gói nhỏ ở cạnh chân ghế mà Fred đang ngồi. Chắc là anh đã bỏ sót chi tiết này.

Trên đất, và bị chiếc ghế che khuất một phần là một khẩu súng ngắn, kiểu Beretta cỡ 22.

- Hoàn toàn đúng như tôi nghĩ,- Steed nói tiếp với vẻ thỏa mãn hiện rõ trên khuôn mặt già nuạ- Ông già tội nghiệp đã tự sát. Một vụ giết người ư? (Ông ta cười mỉa). Anh bạn trẻ ạ, anh cần phải quan sát tinh tường hơn. Đây đúng là một vụ tự sát. Điều này hiển nhiên như chiếc mũi ở trên mặt tôi vậy.

Khi được nghe từ miệng một công dân có uy tín nhất Searle này, người mà tôi đã chia sẻ ý kiến cho rằng đây có thể là một vụ giết người, nói rằng tôi chỉ là một kẻ quan sát hời hợt, chẳng có nghiệp vụ gì, tôi chỉ còn biết đứng yên không đáp. Nhưng trong thâm tâm tôi biết chắc chắn rằng khẩu súng không hề có ở đó khi tôi ra khỏi ngôi nhà để đi báo cảnh sát. Tôi hoàn toàn tin chắc như vậy.

***

Trong khi Anderson và tôi đi theo chiếc xe cấp cứu chở thi hài Fred tới nhà xác, Anderson đã nói với tôi bằng một giọng trách móc.

- Tôi xin lỗi, nhưng tôi lấy làm lạ là tại sao anh lại không phát hiện thấy khẩu súng đó? Thế mà tôi cũng tin đây là một vụ giết người.

- Đừng vội nản chí,- tôi nói và lấy bao thuốc.- Vẫn còn có thể đấy.

Tôi châm thuốc và nhìn qua đám mây bụi.

- Bác sĩ Steed đã chả nói đây là một vụ tự sát rõ mười mươi rồi là gì.

- Đó là ông ta nói.

Anderson lại bắt đầu gãi cằm.

- Thế anh không tin ông ấy à?

- Mọi chuyện đều có thể xảy ra ở cái thế giới kỳ cục này. Ông già Fred đang ăn trưa. Ông ta lại bỗng ngừng ăn và quyết định tự sát ự Đã vậy, sau khi bắn một viên đạn vào đầu rồi lại còn giấu súng đi. Sau khi tôi phát hiện thấy ông ta đã chết, Fred lại còn lấy khẩu súng ra khỏi chỗ giấu và đặt nó xuống dưới ghế. Rồi sau đó mới bắt đầu chết lại. Đấy, như tôi đã nói với anh, tất cả đều có thể xảy ra trong cái thế giới kỳ cục này.

Anderson lặng lẽ lái không nói gì, sau đó mới nhận xét.

- Anh nói đùa đấy chứ, anh Wallace?

- Khẩu súng không có ở đó, khi tôi phát hiện ra ông Jackson. Theo tôi đây chỉ là trò “lá nho”.

- Trò lá nho ư? Tôi không hiểu.

- Mình hỏi thật, có đúng là cậu muốn làm việc chỗ đại tá Parnell không?

- Sao lại không thật.- Anh ta cao giọng.- Tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả những thứ tôi có trên đời này để được rời Searle và được làm việc ở chỗ đại tá Parnell.

- Thôi được rồi. Nếu cậu giúp tôi, tôi cũng sẽ giúp cậu,- tôi nói và vẩy tàn thuốc ra ngoài cửa sổ.- Sự giới thiệu nhiệt thành của tôi cũng có trọng lượng lắm đấy. Đại tá bao giờ cũng tìm kiếm những người thông minh, có tinh thần hợp tác và đã từng ở ngành cảnh sát.

- Anh có thể tin cậy ở tôi, anh Wallace ạ,- Anderson nhiệt tình nói.- Chỉ cần cho tôi biết anh muốn gì? Anh hoàn toàn có thể tin cậy ở tôi.

- Rất tuyệt. Tôi vừa mới nói với cậu rằng ở đây có trò lá nhọ Chả là ở chỗ đại tá Parnell chúng tôi có hệ thống tiếng lóng riêng mà. Khi chúng tôi dùng thuật ngữ này, có nghĩa là muốn nói rằng có chuyện che giấu sự thật. Adam đã chẳng ăn vụng quả táo và che đậy cái của quý của mình bằng một chiếc lá nho là gì. Cậu hiểu rồi chứ? Lá nho có nghĩa là che giấu.

- Thế anh nghĩ là đã có ai đó giết Jackson à?

- Tôi tin chắc như vậy. Đây là một vụ án mạng, Bill ạ. Đừng có nhầm lẫn. Chuyện có thể đã xảy ra như thế này: Tên sát nhân vẫn còn lẩn quất đâu đó khi tôi bước vào nhà. Sau khi tôi đi ra, hắn quay trở vào và đặt khẩu súng xuống gầm ghế. Mình không tin chắc tuyệt đối là sự thật đúng như vậy, nhưng đó là điều có thể. Một giả thuyết khác, hợp lý hơn, là chính bác sĩ Steed đã đặt khẩu súng vào chỗ đó. Ông ta thừa biết rằng nếu Jackson bị giết, thì sẽ phải gọi cảnh sát bang và khi đó thì Mason sẽ mất chức. Tôi nghĩ rất có thể là khi cậu thông báo cho ông ta qua điện thoại rằng Jackson bị giết, ông ta đã tìm một khẩu súng, rồi tới nơi trước chúng ta và đặt khẩu súng vào chỗ đó để cho Mason một lá nho.

- Chưa bao giờ bác sĩ Steed lại làm một việc tương tự như vậy!- Anderson hoảng hốt nói.

- Hãy nghe mình đây, Bill. Cậu còn trẻ, những chuyện như vậy rồi sẽ tới với cậu. Những người bạn già vốn rất trung thành với nhau. Tại sao Steed lại phải bận tâm về cái chết của một lão già tồi tệ như Jackson, trong khi nó có nguy cơ làm tổn hại đến người bạn thân thiết của mình? Một vụ tự sát sẽ tránh được chuyện cảnh sát bang nhúng mũi vào. Vả lại, vụ giết người liên quan đến cảnh sát, chứ không dính líu gì đến tôi. Tôi chỉ có nhiệm vụ tìm thằng cháu nội của Jackson. Ông ta đã trả tiền cho hãng để làm việc đó. Nhưng đừng bao giờ quên rằng nếu cậu thực sự muốn làm việc ở chỗ bọn mình, thì mình hy vọng có sự cộng tác của cậu.

- Trời ơi, chuyện vặt ấy mà. Anh có thể tin vào sự cộng tác của tôi.

- Nếu vậy, cậu chỉ có một việc phải làm là ngậm chặt miệng lại và mở to mắt và tai ra, nghe chưa?- tôi nói và nhìn vẻ mặt băn khoăn của anh bạn trẻ.- Mình đã báo trước cho cậu rồi đấy. Không được nói gì hết, cứ để bác sĩ Steed muốn làm gì thì làm.

Nửa giờ sau tất cả chúng tôi đã ngồi xung quanh bàn của Mason: bác sĩ Steed, Anderson và tôi. Nhìn gương mặt bóng nhẫy và ân cần của Mason, tôi trộm nghĩ rằng tác dụng của thứ uytski Êcốt thật là thần kỳ. Mason người vẫn ướt đẫm mồ hôi, nhưng bây giờ trông ông giống như một ông già Noel hạnh phúc. Sau khi nghe Steed kể xong, ông quay sang tôi với nụ cười rất tươi.

- Chúng tôi ở đây có một chuyện rắc rối nhỏ,- Ông nói.- Hãy cho phép tôi được nói với anh rằng tôi có nghe nói về đại tá Parnell. Tôi rất tự hào đã được gặp một trong số các thám tử của ông. (Ông nghiêng người về phía trước và vỗ vào cánh tay tôi). Thật là một hãng tuyệt vời! Với các thám tử tuyệt vời!

- Cám ơn,- tôi nói.

- Một sai lầm nhỏ, phải vậy không? (Ông ta nheo đôi mắt ti hí như mắt lợn và cười khẽ). Ngay cả khi người ta tinh thông nghề nghiệp của mình, vẫn có thể phạm những sai lầm nhỏ cơ mà. Có phải vậy không?

- Đúng vậy,- tôi nói, mặt lạnh băng.

- Đó là chuyện thường tình mà,- bác sĩ Steed lắc đầu buồn bã nói.- Tôi chẳng hề ngạc nhiên chút nào, Tim ạ. Lão già tội nghiệp sống trong những hoàn cảnh rất tồi tệ. Mất cháu, phải sống một mình. Các anh thấy đấy, cứ nghĩ tới chuyện đó thì chết là một điều may mắn. Tôi không phán xét ông ấy. Sống mà không có đôi chân, không ai chăm sóc. Không… chết được là phúc lắm.

- Đúng vậy. (Mason bỏ mũ ra, lau mồ hôi trán rồi lại đội lên vẻ buồn bã). Bắt cảnh sát bang phải bận tâm về cái vụ buồn bã này thật chẳng ích lợi gì.

- Hẳn nhiên rồi. Các vụ tự sát không bắt buộc cảnh sát bang phải có mặt,- bác sĩ Steed nói như đinh đóng cột.

Mason cười rất to và xoa xoa tay.

- Tuyệt lắm, tôi rất ghét những thằng cha đó. Khi nào tiến hành điều tra, Lary?

- Hai hôm nữa. Tôi sẽ kết thúc nhanh vụ này thôi. Có lẽ phải dùng quỹ của làng để lo an táng cho Fred, Tim ạ. Ông ta chắc là chẳng có xu nào đâu. Chuyện này chúng ta có thể lo được. Chắc dân làng cũng sẵn lòng tổ chức đám tang cho ông ấy một cách tử tế.

- Anh nói đúng. Đó là cha một người anh hùng kia mà. Hãy xin ý kiến hội đồng, Lary ạ. (Mason lấy ví và rút ra một tờ năm đôla nhàu nát). Đây là đóng góp của cá nhân tôi. Mọi chuyện anh cứ thế mà làm. Phải tổ chức đám tang thật long trọng.

Bác sĩ Steed đứng dậy và nhét tờ giấy bạc vào túi.

- Tôi luôn luôn nói rằng anh vốn là người tốt bụng mà. Thôi, tôi đi đây. Tôi sẽ lo việc an táng. (Rồi ông quay sang phía tôi). Rất hân hạnh được làm quen với anh, anh Wallace ạ. Rất tiếc là anh ghé qua chỗ chúng tôi lại đúng vào lúc có chuyện buồn như thế này. Fred Jackson là một con người tuyệt vời. Cả con trai ông ấy cũng thế. Ở cái làng nhỏ bé này tất cả chúng tôi đều rất tự hào về họ.

Tôi đứng dậy, bắt tay Steed rồi nhìn ông ta khập khiễng đi ra cửa. Chợt ông ta dừng lại cười với tôi một cách tinh quái, rồi bước ra đường phố nắng chói chang.

- Thế còn anh, anh Wallacẻ- mason nói và mỉm cười với tôi.- Tôi nghĩ là anh cũng sẽ đi thôi chứ. Anh có muốn uống một ly trước khi chúng ta chia tay không? (Ông ta lấy từ tủ bàn ra một chai uytski Êcốt)

- Lúc này thì không,- tôi nói và nhìn thẳng vào mắt Mason.- Tôi sẽ còn ở đây vài ngày nữa. Ông biết đấy, Jackson đã yêu cầu hãng chúng tôi tìm đứa cháu nội ông ấy. Và lại trả tiền rồi. Thành ra, mặc dù ông ấy đã chết nhưng vẫn còn là thân chủ của chúng tôi.

Đôi mắt Mason tối sầm lại. Vẻ tươi tắn của ông ta đã hoàn toàn biến mất.

- Tìm thằng bé đó ở đây chỉ tốn thời gian vô ích thôi. Nó đã rời khỏi đây ít ra cũng đã năm sáu năm rồi còn gì.

- Dù sao thì tôi cũng phải tìm thử xem,- tôi nói và vẫn nhìn thẳng vào mắt ông tạ- Ông sẽ không cho là bất tiện nếu tôi dò hỏi một số người trong vùng này chứ? Hay ông muốn nói chuyện với đại tá Parnell? Theo như tôi hiểu thì ông đã không báo cho cảnh sát bang về sự biến mất của thằng bé. Đại tá Parnell biết đâu có thể lại muốn nói chuyện với họ về chuyện đó.

Mason nhăn mặt như bị cơn đau răng kịch phát. Ông ta lấy ra một chiếc ly và rót một cách hào phóng.

- Tôi sẽ không phản đối về chuyện anh hỏi người này người nọ. Nhưng anh sẽ chỉ mất thời gian vô ích thôi, anh Wallace ạ.

- Tôi được trả tiền để tiêu phí thời gian của tôi mà.- Tôi đáp, mắt không nhìn Anderson, người vẫn ngồi im lặng như một con mèo nhỏ được dạy dỗ tốt.

Đoạn, tôi bước ra đường phố.

Trước khi tiếp tục điều tra, tôi quyết định phải báo cáo với đại tá. Tôi đi tới chỗ đậu xe trước những con mắt đầy tò mò của người dân ở đây. Tôi cho xe dông thẳng về Paradise City.

***

Trong số vô vàn những điều khác , cha tôi đã dạy cho tôi cách viết báo cáo một cách cô đọng, không bỏ qua một chi tiết quan trọng nào, nhưng tước đi hết những nhận xét dài dòng vô ích.

Đại tá Parnell ngồi bất động trên chiếc ghế giám đốc, mắt lim dim và bàn tay to lớn đặt trên cái thấm mực màu trắng. Ông lắng nghe tôi báo cáo về kết quả điều tra của tôi ở Searle, mà không một lần ngắt lời. Chiếc đồng hồ trong phòng đã chỉ mười tám giờ. Theo thông lệ thì đại tá rời văn phòng đúng mười bảy giờ rưỡi. Ông vốn là người hâm mộ môn đánh golf và tôi vô cùng sung sướng vì thấy bản báo cáo của tôi được ông quan tâm tới mức phải bỏ ván chơi thường lệ buổi tối của ông.

- Tình hình hiện nay là như vậy,- tôi kết luận và không biết rằng mình đã nói liền một mạch trong suốt nửa giờ.

Đại tá nhìn thẳng vào mắt tôi.

- Cháu đã làm một báo cáo rất tuyệt, Dirk ạ. Fred hiện vẫn sẽ còn là thân chủ của chúng tạ Ông ấy đã trả tiền cho chúng ta để tìm đứa cháu nội cho ông ấy. Nhưng việc Jackson bị giết đã làm cho tình hình trở nên phức tạp.

- Điều tra của cảnh sát sẽ kết luận là tự sát,- tôi nói.- Và không ai có thể buộc tội chúng ta là có dây dưa vào vụ giết người này.

Đại tá gật đầu, cầm lấy một cây bút chì và ngắm nghía nó với vẻ trầm tư, rồi nhìn tôi.

- Bác còn phân vân không biết có nên giao cho Chick thay cháu làm nốt vụ này hay không. Dù sao anh ta cũng có nhiều kinh nghiệm hơn cháu. Vụ này có nguy cơ sẽ rất phức tạp đấy.

Tôi cố che giấu vẻ thất vọng của mình.

- Tùy bác xem xét thôi.

Đại tá đột ngột mỉm cười.

- Cho tới lúc này, cháu đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhưng nếu cháu phạm một sai lầm nào đó, thì Chick sẽ là người thay cháu.

- Cám ơn bác.

- Để xem hãng có thể làm gì để giúp đỡ cháu. Cháu có đề nghị gì không?

- Trước hết, cháu muốn có thể nói với Anderson rằng bác sẽ lưu ý tới nguyện vọng của cậu ta và có thể sẽ bố trí cho cậu ấy một chỗ làm. Cậu ta chết vì thèm muốn điều đó. Điều này rất quan trọng đối với cháu. Cháu sẽ phải hết sức thận trọng khi đào bới ở Searlẹ Đó là một cái ổ nhộn nhạo. Nhưng nếu Anderson được khuyến khích tốt, cậu ta có thể giúp cháu làm việc một cách êm thấm.

- Thôi được. Cháu có thể nói với nó là ngay khi có chỗ trống, bác sẽ đồng ý tiếp nó. Nếu nó thực sự hữu ích cho cháu, thì nói với nó rằng bác chắc chắn sẽ nhận nó.

- Cháu sẽ nói đúng như thế. Việc thứ hai là cháu cần phải biết hiện nay Syd Watkins là người như thế nào. Người ta nói với cháu rằng hắn đã xuất ngũ, nhưng không ai biết bây giờ hắn ra sao. Hắn không trở về Searlẹ Cháu nghĩ rằng việc tìm ra hắn là rất quan trọng.

- Bác sẽ cho người tìm hiểu sổ sách đăng ký của quân đội, nếu cần của cả FBI nữa, để xem chúng ta biết được gì.

- Cháu cũng muốn biết Mitch Jackson đã cưới vợ chưa, và nếu có thì là khi nào và với ai?

- Bác sẽ tìm hiểu điều này cho cháu.

- Bác đã có nói với cháu rằng Mitch là một người lính mẫu mực nhất mà bác từng có dưới quyền. Nhưng theo những người ở Searle thì đó là một thằng du thủ du thực, độc ác, nguy hiểm và hay gây gổ.

Parnell nhíu mày. Nét mặt ông sắt lại và điệu bộ của ông hiện nguyên hình là một đại tá về hưu.

- Thật vớ vẩn! Mitch là một hạ sĩ quan tốt nhất của bác. Chưa có ai trong đơn vị phàn nàn về tư cách của anh tạ Mọi người đều nói rất mến anh tạ Mitch xông xáo và rất dũng cảm. Mà không ai lại đi trao huân chương Danh dự cho kẻ không xứng đáng cả.

- Tất nhiên rồi. Có thể là dân Searle đã có sẵn định kiến thôi. Con người ta có thể thay đổi chứ ạ.

- Đúng thế. Chiến tranh làm cho con người biến đổi.- Parnell nói.- Theo bác thì Mitch là một người lính tuyệt vời.

Trong thâm tâm tôi nghĩ rằng tốt nhất là hãy giữ những gì đã biết về Mitch chỉ riêng cho mình. Những người dân ở Searle biết những điều mà họ nói, nhưng đại tá thì chỉ có những thiên kiến. Một hạ sĩ quan tham mưu nhanh nhẹn rất có khả năng làm vừa lòng thượng cấp của mình, nhưng tôi không muốn nói điều này với đại tá.

- Đó là tất cả những gì cháu muốn trình bày với bác vào lúc này,- tôi nói.- Cháu sẽ trở lại Searle và thuê phòng ở khách sạn của làng. Nhiệm vụ của cháu là phải tìm cho ra cháu nội của Jackson. Nếu phát hiện ra manh mối của vụ giết Jackson, cháu sẽ báo ngay cho bác.

- Đồng ý. Hãy nhớ rằng chúng ta không điều tra về vụ giết người. (Ông nhìn tôi vẻ nghĩ ngợi). Chừng nào còn chưa có bằng chứng xác thực là Jackson bị giết, thì cứ tiếp tục tìm kiếm.

- Vâng.

- Cháu sẽ được thanh toán mọi chi phí. Để bác sẽ nói với Glendạ Bác rất muốn tìm ra thằng bé đó.

- Vâng.

Đại tá gật đầu rồi đứng dậy.

- Thế là lỡ ván golf rồi. Cháu có biết chơi golf không, Dirk?

- Cháu thi thoảng cũng có chơi. Nhưng bây giờ đắt đỏ quá.

- Cháu thường được bao nhiêu điểm?

- Kỷ lục của cháu là sáu mươi tám.

- Thật thế không? (Parnell cười). Thế thì lúc nào đó chúng ta phải chơi một ván mới được.

Tôi trở về phòng của mình đúng lúc Chick đang xếp lại hồ sơ.

- Thế nào?- Chick hỏi.- Mà thôi, ta đi uống chút gì đã.

Trong quán bar gần đó tôi kể cho Chick tất cả những điều tôi đã nói với đại tá. Anh ta vừa uống cả chai uytski Êcốt vừa nghe tôi nói.

- Một vụ ngon lành đấy, Dirk ạ. Cậu đang có một bài toán tuyệt vời đấy.

- Có nguy cơ sẽ rơi vào tay cậu, nếu như mình không thu được kết quả.

Chick cười.

- Rồi cậu sẽ nhận được thôi. Mình cũng chẳng muốn bị đày vào cái nơi khỉ ho cò gáy ấy.

- Mình rất băn khoăn về cái tay Mitch ấy. Đại tá thì khen hắn hết lời, nhưng theo những lời mà mình nghe được thì Jackson là một thằng du đãng. Mình rất muốn kiểm tra lại điều đó.

Chick tròn mắt nhìn tôi kinh ngạc.

- Nghe mình đây, Dirk. Mitch là một con người tuyệt vời. Một người đã làm được những việc như hắn…

- Thôi được, hãy tạm bỏ qua sự sùng bái người anh hùng ấy đi. Jackson có thể là người anh hùng đối với các sĩ quan như các cậu. Nhưng mình muốn kiểm tra thông qua trò chuyện với những người dưới quyền hắn kìa. Tức là những gã binh nhì cợ Nếu họ nói hắn thật tuyệt vời thì đúng là hắn tuyệt vời. Mình cũng đã từng đi quân dịch, mình biết bọn hạ sĩ quan rất ngoan đối với cấp trên nhưng lại rất tàn nhẫn đối với cấp dưới của mình. Mình thấy lạ là mọi người ở Searle đều thở phào nhẹ nhõm vì thoát được hắn. Phải thừa nhận rằng chiến tranh đã làm biến đổi con người, nhưng theo những điều mình nghe được thì Jackson là một thằng vô lại. Do vậy mà mình muốn thẩm tra lại.

Chick tu một ngụm rồi châm thuốc hút.

- Mình sẵn sàng đánh cuộc tới cái sơ mi cuối cùng rằng Mitch là một người tuyệt vời. Nhưng cậu có lý. Với bọn mình thì hắn không chê vào đâu được, mọi nhiệm vụ được giao hắn đều hoàn thành xuất sắc. Và người ta thực sự có thể tin tưởng ở hắn.

- Bọn sĩ quan các anh có bao giờ tán gẫu với lính để biết họ có hài lòng về Mitch như các cậu không?

- Phỏng có ích gì! Bọn mình trong trung đoàn đều rất hòa thuận. Mitch quản lính của hắn, còn bọn mình thì chỉ ra lệnh và mọi chuyện đều êm chèo mát mái cả.

- Mình cần phải biết chính xác. Mình muốn nói chuyện với một người lính trơn thuộc quyền Mitch. Cậu có biết ai dễ liên lạc được không?

Chick ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu.

- Hank Smith, một người da đen. Hiện anh ta làm việc tại Sở cầu đường ở Miamị Tình cờ mình mới gặp lại anh ta tháng trước. Mình không nhận ra, nhưng anh ta thì lại nhớ mình. Anh ta cứ khăng khăng đòi uống với mình một ly để nhớ lại những ngày xa xưa. Hồi ở trung đoàn anh ta là một người lính tốt. Bây giờ nghĩ lại, mình nhớ là khi nói với anh ta về Mitch và việc truy tặng huân chương, anh ta không tỏ ra nhiệt tình lắm. Anh ta chỉ gật đầu và nói rằng đó là vinh dự của trung đoàn, nhưng lảng ngay sang vấn đề khác. (Chick gãi đầu). Xét cho cùng thì mình cũng không biết sao nữa. Có thể cậu đúng cũng nên. Đại tá chắc sẽ không đồng ý, nhưng cậu có thể nói chuyện với Smith. Cậu có thể tìm anh ta ở phố West. Anh ta có ngôi nhà ở ngay góc phố.

Hơn một giờ sau tôi đã dong xe vào khu phố West của người da đen ở Miamị Lúc này đã hơn chín giờ tối. Cũng may là lúc ngồi nhâm nhi với Chick tôi đã xơi một chiếc bánh nhồi thịt. Chắc giờ này Chick đang vui thú với một cô bé nào đó rồi. Trong căn hộ hai buồng của mình tôi đã xếp sẵn vali để chuẩn bị tới Searle sau khi gặp Hank Smith.

Trời nóng và ẩm. Hai bên phố West là những ngôi nhà nhỏ tồi tàn. Những người da đen ra ngồi ở hàng hiên và bọn trẻ vui đùa trên đường phố. Rất nhiều ánh mắt tập trung nhìn tôi, khi tôi đậu xe trước một ngôi nhà nhỏ ở góc phố bên phải.

Ngồi trong chiếc ghế phôtơi đu đưa là một phụ nữ to béo, đầu trùm một chiếc khăn đỏ chói, chiếc váy thêu hoa lá đã bạc màu vì giặt quá nhiều lần, mắt nhìn lơ đãng đâu đâu. Đôi mắt đen ti hí của bà quan sát tôi, khi tôi xuống xe, mở cửa vườn, rồi theo bậc tam cấp đi lên hàng hiên. Tôi cũng cảm thấy những con mắt theo dõi tôi từ các hàng hiên khác.

- Bà là bà Smith?- tôi hỏi và dừng lại trước người đàn bà.

Ở gần tôi mới thấy bà ta trạc khoảng ngoài năm mươi. Gương mặt đen to tròn đầy vẻ kiên quyết và nghị lực vốn có ở những người phụ nữ phải vật lộn để kiếm sống và không bao giờ chịu chấp nhận một sự thật nghiệt ngã là họ không bao giờ có thể giàu có được.

Bà ta gật đầu chào tôi vẻ ngờ vực.

- Chính tôi đây.

- Xin hỏi ông Smith có nhà không ạ?

- Ông gặp nhà tôi có việc gì? Nếu ông định bán hàng phế phẩm thì vô ích thôi. Tôi mới là người giữ hầu bao, mà cũng chẳng còn một xu nào đâu.

Một người đàn ông da đen cao lớn và lực lưỡng như một lực sĩ xuất hiện trên ngưỡng cửa. Ông mặc một chiếc sơ mi trắng sạch sẽ và quần bò. Mái tóc xoăn của ông cắt ngắn và đã đốm bạc. Cái nhìn của đôi mắt đen vằn máu có vẻ kín đáo, nhưng khi ông cười phô cả hàm răng trắng bóng, tôi mới thấy ông là một người dễ mến.

- Anh muốn gì?- Ông nghiêm giọng hỏi.

- Bác là Smith?

- Đúng, tôi đây.

- Bác Smith, tôi hy vọng sẽ không làm phiền bác. Chick Barley có cho tôi biết bác sẽ rất vui lòng làm quen với tôi.

Smith cười niềm nở.

- Barley là một con người tuyệt vời. Tôi rất vui được làm quen với bạn bè của anh ấy.

Ông bước lại bắt tay tôi.

- Tôi là Dirk Wallace,- tôi nói.- Tôi làm việc cho đại tá Parnell.

Smith cười còn to hơn.

- Lại một con người tuyệt vời nữa. Vào đây, anh Wallacẹ Láng giềng của chúng tôi hay thọc mạch lắm. Ta phải uống với nhau một ly.

- Hank,- bà vợ Smith gọi giật lại.- Đừng có mà quá chén đấy.

- Yên tâm đi, Hannah,- Ông nói và mỉm cười với vợ.- Một ly nhỏ với bạn hiền đâu có hề hấn gì.

Đoạn, ông dẫn tôi vào một phòng nhỏ. Đồ đạc đơn giản, nhưng tiện nghị Chỉ có hai chiếc ghế phôtơi, một chiếc bàn bằng gỗ trắng và ba cái ghế nhỏ.

- Ngồi xuống đi, anh Wallacẹ- Ông nói và chỉ cho tôi chiếc ghế phôtơi.- Anh làm một chút uytski Êcốt nhé!

- Rất sẵn lòng.

Khi ông bước ra ngoài lấy đồ uống, tôi quan sát căn phòng. Có mấy bức ảnh chụp Smith mặc quân phục, một bức ảnh cưới và ảnh mấy đứa nhỏ trông rất khôi ngộ Smith bưng vào hai ly uytski Êcốt đầy có bỏ đá.

- Anh Barley có khỏe không?- Ông hỏi và đưa ly cho tôi.- Lâu lắm rồi mới gặp anh ấy.

- Anh ấy vẫn khỏe,- tôi nói.- Anh ấy gửi lời chào bác.

Smith cười rồi ngồi xuống.

- Anh biết đấy, chả giấu gì anh, bọn lính tráng chúng tôi vốn chẳng ưa gì cánh quân cảnh. Nhưng Barley thì khác. Anh ấy thường nhắm mắt cho qua những vi phạm của bọn tôi. Ai cũng mến anh ấy.

Ông nâng cốc và chúng tôi cùng uống. Uytski Êcốt làm cháy họng tôi. Smith nhìn tôi cười.

- Hơi nặng, hầy?- Ông hỏi khi thấy nước mắt tôi dàn dụa.- Cánh lính già chúng tôi ưa uống sec.

Tôi đặt ly xuống bàn.

- Tôi biết. (Tôi cố gượng cười). Tôi chưa từng tới Việt nam. Chiến tranh đã chấm dứt trước khi bọn tôi huấn luyện xong.

- Thế là các anh may đấy. Việt nam đâu có phải là một cuộc chơi.

Tôi lấy ra bao thuốc và đưa cho ông. Chúng tôi mỗi người châm một điếu.

- Bác Smith này…

Smith lại cười rất tươi.

- Cứ gọi tôi là Hank thôi. Tôi nghĩ anh cũng là sĩ quan mà, phải không Wallace?

- Đó là chuyện xưa rồi. Bác cứ gọi tôi là Dirk cũng được.

- Đồng ý. (Ông uống một ngụm, rồi thở dài nói). Anh làm cho đại tá à?

- Vâng. Tôi tới gặp bác vì Chick nói rằng bác có thể giúp đỡ tôi.

- Thật thế ử- Ông ngạc nhiên hỏi.- Tôi thì giúp gì được anh đây?

- Mitch Jackson. Bác còn nhớ anh ta không?

Nụ cười trên gương mặt ông tắt ngay.

- Làm sao mà quên được.- Ông nói một cách lạnh nhạt và hơi chua chát.

- Tôi đang lục soát lại quá khứ của anh ta, bác Hank ạ. Điều này rất quan trọng. Tất cả những điều bác nói với tôi sẽ được giữ kín giữa hai chúng tạ Tôi chỉ muốn biết ý kiến của cá nhân bác về Mitch

- Để làm gì?

- Cha anh ta mới bị giết hôm quạ Người ta đang điều trạ Chúng tôi nghĩ rằng Mitch có thể liên quan gì đấy với cái chết của cha anh ta.

- Anh muốn tôi nói thật chứ?

- Vâng. Tôi xin đảm bảo với bác là những gì bác nói với tôi sẽ được giữ kín trong bốn bức tường này. Tôi xin hứa với bác như vậy.

Smith đung đưa chân suy nghĩ.

- Thực lòng tôi không muốn nói xấu về những người đã chết.- Cuối cùng ông cũng lên tiếng.- Nhất là lại về người anh hùng đã được tặng thưởng huân chương Danh dự.

Tôi nhấp một hớp uytskị Nó vẫn cháy họng, nhưng tôi cũng đã hơi quen.

- Mọi người nghĩ gì về Mitch? Và bác nữa, bác nghĩ sao về anh ta?

Hank lưỡng lự một lát, rồi nhún vai.

- Hắn có một lũ con cưng. Điều khó chịu là ở chỗ đó. Anh có thể chưa biết, chứ một khi một thằng cha hạ sĩ quan của ban tham mưu có những đứa con cưng và thả sức dẫm nát người khác dưới gót giày của mình thì chẳng hay ho gì. Jackson là thằng cha như vậy. Đối với một số người thì hắn được coi như cha đẻ, nhưng với những người khác thì hắn là một tên đểu giả.

- Thế với bác, hắn đối xử thế nào?

- Hắn hành tôi chẳng thiếu thứ gì. Cứ mỗi lần có việc khó nhọc là hắn lại sai tôi. Nhưng tôi không phải là người duy nhất chịu những cực hình của hắn. Hơn một nửa tiểu đoàn khốn khổ vì hắn, trong khi những thằng khác tha hồ mà nhảy múa.

- Chắc là phải có một lý do gì chứ.

- Tất nhiên là có rồi. Tất cả cái bọn đi vào rừng trước khi máy bay ném bom tới là lũ con cưng của hắn. Đó là lý do duy nhất mà hắn cất công đi gọi họ. Cũng chẳng phải hắn quý mến gì bọn họ đâu, mà bởi vì hàng tuần bọn này cống cho hắn hàng ngàn độ Hắn tham lam tới mức không thể chịu được cảnh để người ta giết chết những người thường xuyên cống tiền cho hắn. Nếu bọn này không là con cưng của hắn, thì đừng hòng hắn động dạng, dù chỉ một ngón taỵ Vậy mà vì thế hắn được tặng thưởng huân chương.

- Tôi không hiểu, bác Hank ạ. Tại sao bọn này hàng tuần lại phải cống cho hắn hàng ngàn đôla?

Hank uống hết ly rượu rồi nhìn tôi.

- Điều này chỉ chúng ta biết thôi đấy chứ? Tôi không muốn dây dưa vào bất cứ chuyện gì đâu.

- Tất nhiên là chỉ giữa chúng ta thôi, bác Hank ạ.

- Mitch bán ma túy. Mọi người đều biết rằng trong đội quân đánh nhau ở Việt nam, tỷ lệ lính Mỹ nghiện ma túy rất cao. Nhưng tôi không phải chờ để người ta nói cho tôi biết điều đó.

- Nhưng điều đó sẽ phải chịu án rất nặng kia mà. Bác Hank này,- tôi nói.- Nếu bác biết, sao bác không báo cho đại tá Parnell?

Smith cười chua chát.

- Bởi vì tôi không muốn chết. Tôi không phải là người duy nhất biết chuyện đó, nhưng không ai dám nói cả. Để tôi kể cho anh nghe chuyện này. Một hạ sĩ quan dưới quyền của Jackson đã phát hiện ra hắn buôn bán ma túy. Anh ta bảo hắn hãy thôi ngay, nếu không anh ta sẽ đưa hắn ra tòa. Một lần anh ta cùng đi tuần tra với Jackson và anh ta không trở về nữa. Jackson nói rằng anh ta đã bị Việt cộng bắn chết. Có hai người từ chối không mua ma túy của Jackson. Họ cũng lại bị Việt cộng bắn chết. Khi đó khẩu hiệu là ngậm chặt mồm lại. Mà nói ra phỏng có ích gì, ngoài việc mua thêm tai vạ. Anh cứ thử hình dung một người da đen như tôi đi tố giác với Parnell một hạ sĩ quan mà ông rất quý xem. Thôi thì tốt nhất là im lặng.

Bây giờ thì tôi hiểu rằng những người ở Searle là có lý và đại tá Parnell đã lầm.

- Bác có biết bằng cách nào mà Mitch có được ma túy không?

- Không. Tôi cũng chẳng tìm hiểu làm gì và bây giờ tôi cũng không muốn biết.

- Chắc là hắn phải hốt bạc.

- Thì tôi chả nói với anh rồi là gì. Ít nhất là một ngàn đô mỗi tuần. Mà bọn trẻ cũng dầm tiền. Nhiều đứa bố mẹ giàu gửi tiền cho, số còn lại ăn cắp tất cả những gì chúng kiếm được ở Sài gòn mỗi lần được về nghỉ ở đó một tuần.

- Mitch làm gì với số tiền lớn đó? Làm sao mà tiêu hết được.

Hank nhún vai.

- Tôi không biết. Mà không chỉ có một mình Jackson bán ma túy. Có cả đống đứa như hắn. Đơn vị nào mà chả có. Nhưng hắn là đứa duy nhất trong đơn vị chúng tôi. Chúng có thể gom tiền lại đợi khi giải ngũ sẽ mang về.

Tôi nghĩ khả năng này có lẽ đúng.

- Cái tên Syd Watkins có nói với bác điều gì không?

Hank ngẫm nghĩ một lúc rồi lắc đầu.

- Không. Hắn không ở đơn vị tôi.

Đúng lúc đó bà Smith xuất hiện ở cửa.

- Anh hám ăn lắm à, Hank? Đừng tưởng mỡ mà húp.

Tôi hiểu sự ám chỉ của bà bèn đứng dậy.

- Cám ơn bác Hank nhiều. (Tôi bắt tay ông). Nếu nảy ra ý gì mới cháu có thể tới gặp bác chứ?

Ông gật đầu.

- Nhưng với điều kiện phải tuyệt mật.

Lúc bước ra, tôi mỉm cười thân thiện với bà Smith, nhưng vẻ mặt bà vẫn lạnh băng. Đối với bà cuộc viếng thăm nữa chẳng hay ho gì.

Tôi bước xuống đường và tới chỗ đỗ xe. Thậm chí trong bóng tối tôi vẫn cảm nhận được có những ánh mắt theo dõi tôi.

Đúng lúc tôi đặt chân lên xe, thì một gã da đen lực lưỡng, mặc áo sơ mi hở cổ và một chiếc quần vải sẫm màu từ bóng tối bước ra. Vóc dáng anh ta có lẽ Ali cũng phải thèm muốn. Anh ta đặt đôi tay đen to tướng trên mép cửa và nghiêng xuống tôi. Hơi thở của hắn sặc sụa mùi rượu.

- Ở cái xó này người ta không ưa bọn trắng chúng mày đâu, hiểu chưa?- hắn nói bằng một giọng khẽ nhưng đầy hăm dọa.- Xéo ngay, thằng trắng bẩn thỉu và đừng bao giờ bén mảng đến đây nữa.

Tôi nổ máy đáp:

- Cả mày nữa, thằng nhọ, mày cũng xéo đi.

Tôi nhấn ga và chiếc xe lao vút đi. Qua gương hậu, tôi thấy hắn nhảy ra giữa đường giơ cao hai nắm đấm, trông hệt như một con khỉ đột sổng chuồng.

Cuối cùng, tôi cũng đã có được một số thông tin. Tôi biết được rằng Jackson không phải là người anh hùng trắng trong như tuyết, mà là một gã bẩn thỉu nhơ nhớp. Một thằng đã bán ma túy cho đồng đội thật không đáng giá một xụ Bây giờ tôi đã có cả một kho tư liệu để suy nghĩ. Nhưng khi về tới Paradise City, tôi chợt hiểu rằng mình đã đi chệch đường.

Nhiệm vụ của tôi là tìm thằng cháu nội của Fred. Nhưng linh cảm cho tôi biết rằng vụ giết người và việc buôn bán ma túy của Mitch có liên quan tới việc mất tích của thằng bé. Thực ra, đây chỉ là sự mách bảo của trực giác, nhưng tôi tin ở trực giác của mình: nó đã giúp tôi rất nhiều hồi tôi còn làm việc cho cha tôi.

Lúc này đã quá muộn để đi Searlẹ Tôi trở về nhà, đậu xe ở tầng hầm và đi thang máy lên căn hộ tầng năm.

Khi mở cửa phòng tôi vẫn còn đang suy nghĩ lan man đủ thứ chuyện nên chẳng để ý gì đến chuyện khó khăn lắm mới mở được khóa. Vào những lúc khác chắc là tôi đã cảnh giác.

Khi bước vào phòng khách, bật đèn, tôi chợt phát hiện thấy có mùi lạ mà trước kia tôi chưa từng thấy. Mùi tanh của cơ thể hôi hám khiến tôi cảnh giác.

Chúng từ phòng tôi bước ra như hai bóng đen, điệu bộ hung hãn, dao lăm lăm trong tay.

Người láng giềng ở tầng dưới của tôi vẫn bật tivi và oang oang tiếng người phát thanh viên đang đọc bản tin
Về Đầu Trang Go down
V.I.P

V.I.P


Tổng số bài gửi : 164
Points : 364
Join date : 19/11/2010
Age : 28
Đến từ : thiên đường

Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase    Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  I_icon_minitimeMon Nov 22, 2010 10:55 am

Chương 3

Nhìn thấy hai gã da đen tôi đã hoảng hồn. Chúng sóng đôi tiến ra phía cửa phòng tôi. Gã bên phải cao gầy với mái tóc mịn như nhung. Hắn mặc một chiếc áo gilê bẩn thỉu bằng da dê để lộ bộ ngực xương xẩu. Một vòng các hạt ngọc rẻ tiền nhảy nhót trên rốn hắn. Chiếc quần đỏ bó chặt của hắn dây đầy những vết bẩn ở giữa hai đùi. Gã bên trái tóc đen bóng nhẫy, nhỏ con hơn, nhưng cũng hốc hác như thế. Gã mặc chiếc vét da tả tơi và chiếc quần da đen. Cả hai đều đi chân trần, với những bàn chân bẩn thỉu và hôi hám.

Tất cả những thứ đó tôi thấy trong chớp mắt. Chính cái mùi bốc ra từ chúng đã làm cho tôi không bị bất ngờ và đã cứu sống tôi.

Cửa ra hành lang vẫn còn để mở.

Khi hai tên tới gần, tôi thấy mắt chúng đảo như điên và ngất ngư do tác dụng của ma túy.

Tôi nhảy vội ra hành lang, đóng sập cửa lại và chạy tới thang máy, rất may là lúc đó vẫn đang dừng ở tầng của tôi. Tôi ấn nút đi xuống, trong khi hai gã đang ra sức phá cửa. Cánh cửa thang máy khép lại đúng lúc chúng lao về phía tôi.

Tôi tựa người vào vách cabin thang máy và thở hổn hển. Lạy Chúa, thật hú vía!

Hai thằng cô hồn đúng là hung hãn và nguy hiểm nhất mà tôi đã từng gặp.

Trong khi thang máy xuống chầm chậm, tôi nghe rõ tiếng bước chân của chúng trên cầu thang. Những bước chân trần nhảy ba bậc một lúc của chúng cộng hưởng thành một thứ âm thanh trầm đục. Tôi tính rằng chúng sẽ tới tầng trệt trước và sẽ đón chộp tôi ở đó.

Tôi chờ cho chúng chạy vượt qua cabin liền nhấn nút dừng. Khi tới tầng hai, tôi nhấn nút trở lại tầng năm.

Tha hồ cho chúng bay đuổi, hai thằng khốn, tôi nói thầm, khi thang máy lại bắt đầu đi lên. Tôi buồn rầu nghĩ về khẩu 38 li tôi đặt ở tủ hốc tường. Nhưng tôi không muốn liều mạng trở về phòng để lấy nó. Rất có thể chúng đuổi kịp trước khi tôi lấy được vũ khí.

Ở trong cabin thang máy tôi thấy an toàn hơn. Chợt tôi lại nghe thấy những bước chân trần. Thì ra một thằng nhọ chạy lên đuổi theo thang máy, còn tên kia đợi tôi ở dưới.

Nguy hiểm đã được phân đôi, nhưng viễn cảnh phải đối phó với một tên nghiện hung hãn có dao trong tay không mấy hấp dẫn đối với tôi.

Cửa thang máy mở ra ở tầng năm. Tôi có đủ thời gian để thoáng thấy gã có mái tóc chải bóng lộn ló ra từ cầu thang. Tôi ấn nút cho thang máy lên tầng mười ba, tầng cuối cùng.

Vào đúng thời điểm cửa thang máy đóng lại, gã tóc mượt cũng tới nơi và nhìn tôi với đôi mắt đầy căm thù. Hắn cố lách mũi dao vào hai cánh cửa, nhưng đã muộn mất rồi. Thang máy cứ tiếp tục đi lên. Tôi lại nghe thấy hắn chạy theo cầu thang. Tôi thèm khát nhìn nút báo động, đó là nút sẽ báo chuông khi có ai đó bị kẹt trong thang máy, nhưng lại không muốn ấn vào đó. Gác thang máy là một ông già mà tôi rất mến. Hai thằng khốn đó sẽ xé xác ông già nếu ông can thiệp vào chuyện này.

Tới tầng mười ba, cánh cửa thang máy mở ra. Tôi đã đặt sẵn ngón tay vào núm tầng hai, nhưng tôi đợi và nghe thấy gã da đen đang hổn hển leo lên. Thấy rõ là hắn đã hụt hơi rồi. Đợi cho hắn tới góc hành lang, tôi vẫy tay gọi hắn, rồi ấn nút. Chiếc thang máy bắt đầu đi xuống. Tôi lại nghe thấy tiếng thằng cha đó lết xuống cầu thang và vui mừng thấy hắn đã kiệt sức.

Chỉ còn thằng áo da dê.

Tôi có người bạn láng giềng ở tầng hai, đối diện với cửa thang máy. Nếu tôi có thể chuồn vào phòng anh ta, khóa trái cửa lại và gọi cảnh sát, thì sẽ thoát khỏi cơn ác mộng này một cách an toàn. Nhưng nhỡ anh ta không có nhà thì sao? Hoặc nếu anh ấy không mở cửa ngay? Thằng cha áo da dê có nguy cơ sẽ chộp kịp tôi trong lúc tôi đang rối rít ấn chuông.

Trong khi thang máy đang từ từ hạ xuống, tôi cởi áo vét và cuốn nó xung quanh cánh tay trái. Cũng là một cách bảo vệ bất đắc dĩ đối với một cuộc tấn công bằng dao.

Cửa thang máy lại mở ra ở tầng hai. Tôi nhảy đại đến cửa phòng người bạn.

Đúng là thằng áo da dê đã đợi tôi. Tôi chỉ vừa mới giơ tay quấn áo lên và chưa kịp gõ cửa. Nếu không có chiếc ví trong túi áo, thì tôi chắc đã bị thương rồi.

Tôi nghiêng người qua bên phải và cú đấm của tôi đã giáng đúng mặt hắn. Hắn hộc lên một tiếng , rồi gục xuống như người không xương. Hắn buông con dao ra và lấy đôi tay bẩn thỉu che mặt.

Cũng lúc đó tôi nghe thấy tên kia hổn hển đi xuống. Tôi nhặt vội con dao của thằng áo da dê và lùi lại đúng lúc tên kia vừa tới sàn cầu thang.

Thằng bạn hắn vẫn đang rên rỉ. Hắn dừng lại quan sát và chợt nhìn thấy tôi.

Tôi giơ con dao lên.

- Tiến lại đây, thằng khốn,- tôi nói.- Tao sẽ cho mày đi tong con ạ.

Thách thức một thằng du đãng ghiền ma túy, nói chung là một việc làm thiếu thận trọng. Hắn lao tới như con bò tót, dao chĩa vào người tôi, nhưng tôi đã nhanh chân nhảy qua chỗ khác. Hồi ở quân đội, người ta cũng đã dạy tôi những kỹ thuật chiến đấu với dao.

Thằng nhọ mất đà đâm dao vào bức tường bêtông. Lưỡi dao gẫy đôi văng ra. Tôi quẳng con dao đang giữ trong tay và lấy hết sức thoi mạnh vào hàm gã. Gã đổ sập xuống và bất tỉnh như ngọn nến phụt tắt.

Gã áo da dê định lồm cồm bò dậy. Tôi tiến lại đá một cú trời giáng vào thái dương hắn. Hắn gục hẳn, nằm sõng soài như con vịt chết.

Tôi nhặt con dao, đi tới thang máy và lên tầng năm. Tôi trở về phòng, đóng cửa và cài then cẩn thận.

Mùi hôi hám của hai tên nghiện vẫn còn phảng phất trong phòng. Tôi đi tới cửa sổ và mở toang hai cánh.

Tôi đứng bên cửa sổ một lát, hít đầy lồng ngực không khí đêm nóng, ẩm và trong lành. Không thể để cho hai thằng khốn đó trốn thoát, tôi đã định gọi điện cho cảnh sát, nhưng rồi lại lưỡng lự vì sáng sớm mai tôi cần phải tới Searlẹ Cảnh sát chắc sẽ không để cho tôi đi, họ sẽ muốn thẩm vấn tôi và buộc tôi phải phát đơn kiện. Nhưng dù sao thì cũng phải báo.

Vào đúng lúc tôi rời cửa sổ, tôi chợt dừng lại. Một chiếc xe màu đen vừa đỗ lại trước ngôi nhà tôi. Một người đàn ông từ xe bước ra. Khi người đó đi qua cột đèn, tôi nhận ra đó là gã da đen to vật mà tôi đã nói chuyện trên đường phố lúc rời nhà Hank Smith. Tôi nhận ra ngay đôi vai lực lưỡng, cái đầu bé tí và bộ quần áo đen của gã. Tôi chạy vào phòng, mở vội tủ tường và lấy ra khẩu 38 ly chuyên dùng cho cảnh sát đặc biệt, kiểm tra nó đã được nạp đạn đầy đủ, rồi ra phòng khách quan sát qua cửa sổ. Chiếc xe vẫn đậu ở đó, nhưng không thấy thằng khỉ đột đâu. Hay hắn đang đi lên phòng tôi? Hay là đang chăm sóc hai thằng khốn kia?

Tôi đứng đợi, người vã mồ hôi và mặc dù biết rằng cần phải gọi cảnh sát, nhưng tôi vẫn còn lưỡng lự. Khẩu súng trong tay mang lại cho tôi sự tự tin. Không có nó chắc tôi đã hét lên gọi xe cảnh sát.

Tôi bực bội thấy gã khỉ đột đi ra kéo theo hai tên nghiện, một thằng kéo tay và một thằng kéo tóc. Gã ném hai thằng vào ghế sau, như người ta ném hai con mèo con, rồi ngồi vào tay lái phóng vụt đi.

Tôi lảo đảo đi tới tủ rượu, rót một ly uytski, uống cạn rồi thả người trên ghế. Chưa bao giờ tôi thấy sợ và bị sốc tới quá năm phút như lần này. Với bàn tay vẫn còn run, tôi bật lửa châm thuốc hút, rồi đứng dậy đi vào buồng ngủ. Tôi mở toang cửa sổ để xua đi cái mùi hôi hám. Tôi trở lại phòng khách xem có bị mất mát gì hay bọn nó có lục lọi gì không. Sau khi thấy không suy xuyển gì, tôi đi vào phòng ngủ kiểm tra tiếp. Ở đây bọn nó cũng không lục lọi gì.

Thần kinh tôi đã bình phục trở lại.

Có lẽ tôi đã yên tâm hơn nếu phát hiện ra hai thằng nghiện đó tới kiếm cái gì đó để bán. Nhưng tôi đã lo lắng thấy rằng chúng tới đây chỉ để băm vằm tôi hoặc chỉ để giết tôi.

Thần kinh tôi lại căng như dây đàn.

Tại sao lại thế nhỉ?

Có phải vì tôi đã tới gặp Hank Smith không? Tôi không thấy có nguyên nhân nào khác. Thằng khỉ đột đã đợi để dọa tôi và hắn dễ dàng tìm ra địa chỉ theo biển xe tôi. Khi thấy rằng tôi không sợ, chắc chắn đã gọi điện cho hai thằng kẻ cướp kia đợi tôi ở nhà và thanh toán tôi.

Ngồi trên giường, tôi suy ngẫm về những điều Hank Smith đã kể với tôi. Mitch buôn bán ma túy. Rồi tôi lại nghĩ đến Hank Smith. Liệu ông ta có bị nguy hiểm không? Tôi nghĩ tới người đàn bà đáo để và bức ảnh hai đứa con họ. Tôi bỗng toát mồ hôi. Tôi nhớ khi chúng tôi nói chuyện với nhau tôi có nhìn thấy trong phòng ngủ của Hank có điện thoại. Tôi đứng dậy lấy quyển danh bạ và tìm số điện thoại của Hank. Khi quay số, tôi liếc nhìn đồng hồ xem giờ. Đã mười một rưỡi đêm. Biết bao nhiêu điều đã xảy ra từ khi tôi rời Searle.

Sau tiếng chuông thứ hai, có giọng ai đó trả lời.

- Tôi nghe đây.

Đó là giọng một người da đen.

- Bác Hank hả?

- Không. Tôi là Jerry, láng giềng của Hank.

- Tôi có thể nói chuyện với bác Hank được không?

Một khoảng im lặng khá lâu, rồi giọng đó nói.

- Bây giờ thì không ai có thể nói chuyện với Hank được nữa rồi. Ông ấy đã chết.

- Sao? Bác ấy chết rồi sao?

- Tôi không biết ông là ai, nhưng tôi cũng chẳng cần biết. Tôi tới đây trông hai thằng bé cho bà Smith tới bệnh viện.

- Thế chuyện gì đã xảy ra vậy?

- Một thằng khốn nào đó đã hạ Ông ấy trên đường tới Câu lạc bộ.

Tôi chậm rãi gác máy.

Tôi còn đứng một lúc lâu với đôi mắt vô hồn và những cơn ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng. Đêm nay quả thật kinh khủng. Tôi cố trấn tĩnh lại tinh thần. Đại tá cần phải được biết chuyện này. Biết rằng giờ này ông không còn ở văn phòng, tôi gọi điện cho ông về nhà.

Trả lời tôi là bà Parnell. Bà cho tôi biết đại tá đã đi Washington và ít nhất là một tuần nữa mới về.

- Cháu là Dirk Wallace đây, cháu là nhân viên của bác trai – tôi nói. – Cháu có việc rất quan trọng cần liên lạc với bác ấy.

- Thế thì anh phải đợi ông ấy trở về thôi. – bà ta nói bằng một giọng hách dịch.

Tôi có cảm tưởng như bà ta xem đám nhân viên của chồng mình như một lũ ăn hại vậy.

- Đại tá đang lo một việc đại sự quốc gia. (Bà ta nói thêm rồi cúp máy).

Tôi rất muốn tham khảo ý kiến của Chick, nhưng lại đắn đọ Đây là việc của riêng tôi. Đúng nhất là xin ý kiến đại tá chứ không ai khác. Tôi cởi quần áo, đi tắm rồi lên giường ngủ. Đúng như tôi dự kiến, tôi trằn trọc suốt đêm không sao chợp mắt được.

***

“Jumping Frog” (Ếch nhảy) là khách sạn duy nhất ở Searlẹ Nhìn vẻ ngoài nó như một cái lán gỗ. Nhưng leo lên hết mươi bậc gỗ cọt kẹt dẫn tới cửa vào, tôi thấy yên tâm hơn. Đứng trong quầy tiếp tân là một cô gái rất xinh với mái tóc vàng như lúa. Cô cười rất tươi đón tôi.

- Chào ông Wallace, - cô nói khi tôi bước lại gần. – Ông tới ở đây chứ ạ?

Tôi không hề ngạc nhiên. Ở Searle này mọi người đều biết nhau, kể cả người lạ. Silas Wood chắc đã nói về tôi.

- Đúng như vậy,- tôi nói.

- Tên em là Peggy Wyatt. Cha em là chủ khách sạn này, nhưng em là người quản lý, cô phân trần. – Ông muốn loại phòng nào, ông Wallacẻ Ông cho phép gọi ông là Dirk được chứ ạ? Ở đây mọi người đều thân mật với nhau lắm.

Tôi ngắm nhìn cô gái. Cô có thân hình hơi nhỏ. Thực tình, ở cô ta có một vẻ gì đó – mà tôi không biết chính xác là điều gì – khiến ta nghĩ rằng đưa cô ta lên giường là việc không khó khăn gì.

- Tất nhiên rồi. – tôi nói và mỉm cười thân thiện. – Loại phòng nào ấy à? Thế cô có những loại phòng nào?

- Nói thật với ông các phòng ở đây đều chật chội lắm, nhưng có một phòng dành cho các cặp vợ chồng: một giường đôi rất rộng. (Cô ta bẽn lẽn nhìn tôi với đôi mắt có hàng lông mi dài và tỉa cong cầu kỳ). Một phòng ngủ nhỏ và tủ lạnh đựng đồ uống.

- Thế là tốt rồi.

Cô gái đưa cho tôi bảng giá. Vì mọi chi phí của tôi đều được thanh toán nên tôi chấp nhận. Sau đó cô đẩy quyển sổ đăng ký về phía tôi. Chờ tôi ký xong, cô gái vòng qua quầy đi ra.

- Em sẽ dẫn ông đi xem phòng.

Cô gái mặc chiếc quần bò bó như mọi thanh niên khác và tôi đi theo cặp giò bó chặt đó đến cửa thang máy. Chúng tôi lên tầng một. Cô gái không lúc nào ngừng mỉm cười nhìn tôi. Nếu ở cái làng Searle này mọi người đều là bạn bè thì cô gái đúng là một quảng cáo sống.

Cô gái mở cửa và chỉ phòng cho tôi. Căn phòng tiện nghi mặc dù hơi nhỏ: một buồng ngủ có cửa sổ nhìn ra phố chính, một giường rộng và một phòng tắm nhỏ ngay bên cạnh.

- Tuyệt vời, - tôi nói và đặt vali xuống.

Peggy ngồi xuống giường nhún nhảy.

- Lò xo không cọt kẹt chút nào, cô mỉm cười nói.

Đúng lúc tôi nghĩ rằng đó là một lời mời khéo, thì cô gái đứng dậy đi ra phòng khách.

- Mời ông ra đây làm một lỵ Nhà hàng mời. – cô nói và bước tới gần tủ lạnh. – Uytski Êcốt chứ?

- Được thôi, với điều kiện cô phải cùng uống với tôi.

- Em thích rượu gin hơn. (Cô vừa rót đồ uống vừa nói tiếp). Nhà ăn ở đây chắc sẽ vừa lòng ông. Đừng có ăn ở chỗ khác làm gì. Bà đầu bếp ở đây hơi bị siêu. (Cô ta đưa ly cho tôi và nâng cốc về phía tôi, uống cạn rồi buông một tiếng thở dài và lại mỉm cười nhìn tôi). Vào giờ này trong ngày, hôm nào em cũng phải uống thứ gì đó. Cha em thì không muốn thế.

- Tất cả những người lao động nặng nhọc đều nên uống một ly vào lúc mười một giờ rưỡi mỗi sáng. – Tôi đáp và nhấp một chút uytski êm và ngon.

- Hình như ông là thám tử phải không? Chứ ở cái xó xỉnh này thì có gì hay đâu mà xem. Có đúng là ông đang tìm Johnny Jackson không?

Tôi dự tính màn giáo đầu này còn kéo dài, nên ngồi xuống và mời cô gái ngồi xuống ghế đối diện.

- Để em rót thêm một ly nữa đã, - cô nói rồi lúc lắc cặp mông đi tới tủ lạnh.

Tôi ngạc nhiên là ly của cô ta hết nhẵn. Sau khi rót đầy một ly nữa, cô gái quay lại và ngồi xuống.

- Có đúng là vì Johnny mà ông đến đây không?

- Đúng.

- Ông già Jackson tự sát, thật khủng khiếp. Ông có thấy thế không?

- Đó là những chuyện thường xảy ra ấy mà.

- Em cũng hiểu. Ông già còn gì để mà hy vọng nữa đâu. Có phải vậy không?

- Một số người thì không, nhưng một số người khác lại có.

Cô gái uống một hơi hết nửa ly.

- Em không muốn già một tẹo nào.

- Nhưng điều đó sẽ đến với tất cả chúng ta, có trừ ai đâu. Cô có quen Johnny không?

- Em cùng học với anh ấy. Em rất nhớ anh ấy. Bọn con gái trong lớp mê anh ấy lắm, nhưng anh ấy chỉ có mến em thôi.

Johnny mất tích đã sáu năm nay, mà cô bé này lúc đó chỉ khoảng mười lăm mười sáu. Nếu cô ta không nói xạo, thì ở cái thị trấn nhộn nhạo này bọn trẻ có đời sống tình dục sớm thật.

- Nhưng tôi nghe nói Johnny đâu có thích chơi với con gái.

- Đúng vậy, hoàn toàn đúng. Anh ta thuộc loại con trai chỉ có một bạn gái, và người đó là em. (Cô gái uống cạn ly). Ông có nghĩ rằng sẽ tìm được anh ta không?

- Cũng không biết nữa, nhưng tôi hy vọng là được. Đó là nghề của tôi mà.

Cô gái nghiêng người ra phía trước. Gương mặt xinh đẹp của cô bây giờ đã đỏ lựng.

- Ông nhất định phải tìm ra anh ấy. Em nhớ anh ấy quá.

- Theo người ta nói thì cậu ấy bỏ đi sáu năm trước. Thời gian như vậy là quá lâu để một cô gái xinh đẹp như cô còn nhớ và lại còn tơ tưởng nữa.

- Johnny hoàn toàn khác bọn con trai khác. Anh ấy không giống bọn vô tích sự Ở đây. Johnny thông minh. Em đánh cuộc là anh ấy đã thành đạt ở đâu đó và kiếm được hàng đống tiền. (Peggy thở dài). Em mơ ước anh ấy sẽ trở lại đây và đưa em ra khỏi cái xó xỉnh chán chết này. (Cô gái nhìn chiếc cốc rỗng không với vẻ chán chường).

- Cậu ấy có nói là sẽ bỏ đi không?

Cô gái lắc đầu.

- Anh ấy không bao giờ nói về mình. Cũng chẳng bao giờ nói về ông nội anh ấy.

- Thế cậu ấy nói những chuyện gì?

- Ồ, ông còn lạ gì bọn con trai. Khi thì nói về tình yêu, khi thì phàn nàn thế giới này thật khó nhọc đối với cánh đàn ông. Em có thể ngồi nghe anh ta nói hàng giờ. (Cô ta lại nhìn trộm chiếc tủ lạnh). Để em rót thêm ly nữa, - cô nói và chìa cho tôi xem chiếc ly rỗng.

- Thôi đủ rồi, Peggỵ Rượu gin rất có hại đối với những cô bé tử tế như cộ Không nên uống quá nhiều.

- Cái gì khiến ông nghĩ rằng em là cô bé tử tế? (Cô bé đứng dậy và rót thêm một ly rượu gin nữa). Ở cái xó xỉnh này chẳng có ai nghĩ như vậy cả.

- Tại sao?

Cô bé đã say, cười khanh khách.

- Rồi người ta sẽ kể cho ông nghe. Chàng trai duy nhất quý mến con bé hư đốn này là Johnny.

- Giữa cô và Johnny đã có chuyện gì chưa?

- Tại sao ông lại hỏi vậy? Em thì muốn lắm, nhưng Johnny thì làm ra vẻ rằng tình yêu không phải như thế. Nó phải đến cùng với hôn nhân. (Cô gái uống cạn ly, rồi loạng choạng để rơi cốc xuống thảm; sau đó cô nhìn tôi và nói trong cơn nức nở). Chính vì thế mà em muốn ông phải tìm ra anh ấy. Em muốn anh ấy quay lại đây và cưới em. Phải tìm bằng được anh ấy, ông nghe rõ chưa?

Rồi cô gái quay gót loạng choạng đi ra khỏi phòng và đóng sập cửa lại.

Tắm rửa và thu dọn đồ đạc xong thì đến giờ ăn trưa. Bụng tôi đói cồn cào. Tôi đi xuống nhà ăn. Khoảng vài chục người, chủ yếu là đàn ông, đang ngồi ăn. Khi tôi bước vào, mọi người đều ngẩng mặt nhìn tôi. Một số người mỉm cười và một số khác chỉ gật đầu chào tôi. Trong cái phòng rộng lớn này chắc chắn mọi người đều biết tôi làm việc cho một hãng thám tử tư và tôi đang tìm đứa cháu nội của Fred Jackson. Tôi ngồi vào cạnh chiếc bàn xa cửa sổ. Một người hầu bàn già da đen mỉm cười tới mời tôi món đặc sản trong ngày.

- Đây là món tủ của bà đầu bếp ở đây đấy, ông Wallace ạ, - Ông nói. – Thịt bò hầm.

Tôi đồng ý gọi món đó và ông già chạy đi.

Biết mình là trung tâm của sự chú ý, tôi đan chéo hai bàn tay và đặt ngay ngắn trên bàn. Tôi biết chắc chắn rằng một ngày nào đó người ta không còn để ý đến tôi nữa. Nhưng cảm giác mình bị theo dõi, cứ như người ta chờ đợi tôi đột nhiên rút súng ra hay làm một trò ảo thuật nào đó, khiến tôi thấy khó chịu.

Tôi chợi thấy một người đàn ông cao lớn với vẻ mặt buồn bã đang đứng ngay cạnh tôi.

- Tôi là Bob Wyatt. Con gái tôi có nói rằng ông sẽ ở lại nhà chúng tôi đây một vài ngày. Thật là hạnh phúc lớn cho chúng tôi.

Bắt tay Wyatt, tôi quan sát vẻ mặt nhợt nhạt gầy guộc và đôi mắt đã lờ đờ của ông. Ông ta trạc ngoài năm mươi và có lẽ cuộc đời không mấy ân sủng với ông.

- Nếu ông cần điều gì đó, cứ nói với Peggỵ – Ông nói với nụ cười gượng gạo và nhợt nhạt. – Chúc ông ăn ngon miệng. (Nói xong ông bỏ đi).

Món thịt bò hầm quả là ngon tuyệt. Tôi ăn một cách chậm rãi và vào khoảng hơn hai giờ chiều, tôi bước ra tiền sảnh sau khi mọi người còn lại trong phòng ăn đã gật đầu hoặc mỉm cười chào tôi. Tôi cũng mỉm cười hoặc gật đầu đáp lại.

Peggy đang đứng tựa vào quầy tiếp tân. Cô mỉm cười rất tươi chào tôi nhưng tôi không dừng lại. Tôi bước ra đường phố nóng ẩm và đi tới đồn cảnh sát. Tôi gần như chắc rằng may ra giờ này Mason đang uống thứ thuốc của ông ta và Anderson ở đó một mình.

Tôi thấy Anderson đang gác chân lên bàn và dùng một que diêm xỉa răng. Thấy tôi, anh ta đặt vội chân xuống và đứng phắt dậy.

- Chào anh Wallace, rất hân hạnh gặp lại anh.

- Cứ gọi mình là Dirk, - tôi nói và đưa tay bắt. - Có thể chẳng bao lâu nữa bọn mình sẽ cùng làm việc với nhau đấy. (Và tôi kể cho anh ta những điều mà đại tá ủy quyền cho tôi).

Anh ta mừng rỡ cứ như vừa kiếm được một triệu đôla.

- Thật tuyệt vời! Cám ơn Dirk. Thật không thể tưởng tượng nổi.

- Cảnh sát trưởng có đây không? – tôi hỏi và ngồi xuống.

- Không. Ba giờ nữa ông ấy mới quay lại.

- Này Bill, ngôi nhà của Jackson bây giờ ra sao?

- Chẳng sao cả. Tha hồ cho chim chóc ở. Có thể có ai đó sẽ mua khu đất đó, nhưng là do thằng cháu nội quyết định. Tôi nghĩ nó là người thừa kế duy nhất của ông già Fred.

- Có ai biết nó hiện ở đâu không?

Anderson lắc đầu.

- Chẳng ai biết. Bác sĩ Steed nói ông ta sẽ cho thông báo trên các báo địa phương về cái chết của Fred. (Anh ta nhún vai). Tôi không biết điều đó có ăn nhằm gì không, nhưng Steed nói đó là điều cần phải làm.

- Mình rất muốn ngó lại ngôi nhà đó một lần nữa, - tôi nói. – Cậu có đi với mình không?

- Anh cho rằng có thể phát hiện được điều gì nữa à?

- Chừng nào chưa xem, làm sao mà biết được.

- Anh định đi ngay bây giờ à?

- Tại sao lại không, nếu cậu không bận gì?

- Tôi ngày nào cũng ngồi đây, nhưng có việc làm gì đâu. Rồi bọn tôi thành lũ vô tích sự hết. Ở cái làng Searle này tỷ lệ phạm pháp bé như đầu chiếc đinh ghim.

- Thế thì ta đi thôi.

Dọc đường, tôi nói với Bill về PeggyWyatt. Ngồi cạnh anh ta trong chiếc Chevrolet cũ rích, tôi cố moi mọi thông tin mà anh ta có thể cung cấp cho tôi.

- Peggy ấy à? Một con bé hư đốn. (Bill lắc đầu). Anh biết đấy, tôi rất thương hại bố con nó. Ông ấy bị bệnh ung thư không thể chữa khỏi, may lắm thì sống được vài năm nữa. Không có đám nhân viên da đen, thì khách sạn sập tiệm lâu rồi. Amy, cái bà đầu bếp da đen ấy, nấu nướng ngon lắm nên còn thu hút được khách ăn. Bob Wyatt chỉ luẩn quẩn trong nhà. Ông ấy đau yếu thường xuyên. Mọi việc quản lý trong tay Peggỵ Hồi xưa tôi học cùng trường với nó. Peggy là con bé thông minh. Rồi khi mẹ mất, nó bỏ học để giúp bố trông nom khách sạn. Và bắt đầu từ đó Peggy trở nên không thể chịu nổi.

- Thế mẹ cô ấy chết khi nào?

- Khoảng sáu năm trước. Khi đó Peggy tròn mười sáu tuổi.

- Cùng khoảng thời gian đó Johnny mất tích.

Anderson liếc nhìn tôi.

- Chuyện này thì có quan hệ gì với Peggy?

- Cậu nói là cô ấy trở nên không thể chịu nổi. Thế cô ấy có gây ra chuyện rắc rối gì không?

- Nói đúng ra là không. Cô ấy chỉ tự gây rắc rối cho mình thôi. Chuyện đó ở đây ai chả biết. Nó ngủ gần như với hết thẩy mọi người. Tai tiếng lắm. Nhưng mọi người rất quý và thương bác Bob lắm, nên thường tạo bằng chứng ngoại phạm cho Peggỵ (Lại một lần nữa Bill liếc nhìn tôi). Cái mà anh gọi là lá nho ấy mà. Nghe người ta nói gần đây nó còn uống rượu nữa.

- Hình như cô bé có quan hệ thâm mật với Johnny lắm phải không?

- Tin mới đấy. Johnny có để ý gì đến bọn con gái đâu. Vả lại, Peggy là loại con gái cuối cùng mà một đứa con trai như Johnny có quan hệ. Hắn là một thằng rất nghiêm túc.

- Cậu có biết anh ta hồi đi học không?

- Có. Nhưng tôi không quan tâm tới hắn. Đúng là hắn học giỏi nhất trường, nhưng là đứa thích cô độc. (Anderson cho xe ngoặt vào con đường hẹp dẫn tới nhà Jackson). Có một số đứa định dần cho hắn một trận. Tôi nhớ là có một nhóm đã định ngày giờ cho hắn bài học hẳn hoi. Tôi cũng tham gia trong nhóm đó. Bọn tôi đã dồn hắn vào một góc sân chơi và định quét sơn vào mặt hắn. (Anderson gãi cằm). Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn một hộp sơn và một chiếc chổi quét sơn lớn. Johnny đứng im trước mặt chúng tôi. Hắn chẳng buồn tìm cách tháo chạy nữa. Hắn cứ đứng đó và nhìn chúng tôi. (Anderson nhún vai). Tôi không biết sao, nhưng lúc đó chẳng thấy thích thú gì nữa. Ở hắn có điều gì đó khiến chúng tôi phải dừng taỵ Rồi chúng tôi cũng quên câu chuyện ấy đi. Hoặc có thể chúng tôi hiểu được rằng chúng tôi là một ngũ ngốc nghếch còn Johnny đã là một người lớn. Tôi không thể giải thích nổi điều đó. Trong đôi mắt hắn có cái nhìn không hề nao núng mà còn như đặt hắn sau một bức tường lớn vậy. Bọn tôi la hét ầm ĩ nhưng rồi đột nhiên tự tản ra. Và cũng từ đó mọi người để hắn yên.

Anderson dừng xe trước ngôi nhà lụp xụp của Jackson.

- Chúng ta tới nơi rồi, - Bill nói và xuống xe.

Chúng tôi cùng đi tới nhà và mở cửa. Những con nhặng đã biến đi đâu hết. Trong nhà phảng phất mùi ẩm mốc. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng ộp oạp xa xa của lũ ếch.

- Cậu đã kiểm tra xem ông già Jackson có giấy phép giữ súng chưa, Bill? – tôi hỏi và quan sát xung quanh.

- Rồi. Ông ta có giấy phép dùng súng carbin chứ không phải khẩu Beretta.

- Thế cậu đã kiểm tra xem ở Searle có ai có khẩu Beretta chưa?

- Rồi. Ở Searle không ai có khẩu Beretta cả.

Tôi gật đầu ra vẻ khen ngợi.

- Cậu đã làm tốt nhiệm vụ đấy.

- Bởi tôi rất muốn làm việc cho đại tá Parnell mà.

- Với đà này cậu nhất định sẽ đạt được ý nguyện. Bây giờ ta hãy đi xem xét một lát.

Trong một giờ rưỡi, chúng tôi đã rà soát ngôi nhà từng li từng tý. Nhưng không có một kết quả gì: không một bức thư, không một tờ hóa đơn, không một bức ảnh. Khi kiểm tra các ngăn kéo rỗng của cái tủ đầu giường, tôi có cảm tưởng rằng ai đó đã tới đây trước chúng tôi và đã mang hết những thứ có ở đây đi. Không thể có chuyện ông già Jackson sống bấy nhiêu nămở ngôi nhà này mà lại không giữ một bức thư hay một chứng từ nào.

- Mình có cảm tưởng rằng chúng ta đã tới muộn mất rồi, Bill ạ. – Tôi nói.

- Có lẽ vậy. (Anh ta đang ngồi quỳ gối nhìn dưới gầm giường). Hình như ở đây có cái gì đó thì phải.

Anderson giúp tôi đẩy cái giường dịch ra và chúng tôi phát hiện ra một cái hố đào xuống sàn nhà với tấm nắp bằng gỗ chỉ đậy một nửa. Tôi nhấc cái nắp ra và kiểm tra bên trong cái hốc rỗng. Tôi quay lại nhìn Bill đang quan sát qua vai tôi.

- Có thể ông già đã cất tiền ở đây và chắc là chưa tiêu bao nhiêu, - tôi nói và ngồi xổm dậy. – Cái lỗ này là nhà băng của ông ta và có kẻ nào đó đã phát hiện ra.

- Xem ra có lý lắm, - Bill thừa nhận.

Tôi nhún vai và đứng dậy.

- Thế là chúng ta chẳng thu được kết quả gì. Mình hy vọng sẽ tìm thấy thư từ, hay ít nhất cũng là một bức ảnh của Mitch và Johnnỵ Bây giờ ta thử xem xét quần áo của ông già xem sao.

Chúng tôi mở tủ quần áo. Chỉ còn độc nhất một cái quần cắt cụt hai ống và một chiếc áo vét bằng da đã sờn. Tôi lục tìm các túi, nhưng chỉ thấy bụi là bụi.

- Ông già sống hà tiện nhỉ? – tôi nói và khép cánh cửa tủ lại.

Bill lầu bầu gì đó trong miệng. Cậu ta đang đứng quan sát bức tường trước mặt. Tôi nhìn theo Bill và nhận ra ngay chỗ đã từng treo một bức tranh hay một khung ảnh gì đấy. Chỉ có ánh sáng mặt trời mới cho phép chúng tôi phát hiện ra điều đó. Theo dấu vết còn lại trên tường, thì cái khung này khoảng ba mươi nhân mười lăm xentimét.

Tôi đứng suy nghĩ một lát, mắt vẫn không rời bức tường, rồi nói:

- Mình đoán rằng đây là chiếc khung huân chương Danh dự của Mitch. Được treo ngay trên giường của ông già. Tất nhiên chỉ là giả thuyết thôi, nhưng mình sẵn sàng đánh cuộc là mình không lầm.

- Nếu kẻ tới đây trong khoảng thời gian từ hôm qua đến sáng nay là một tên trộm, - Bill nói. – thì nó sẽ làm gì với tấm huân chương ấy? Vì tên Mitch đã được khắc ở bên dưới rồi kia mà.

- Ai nói với cậu nó là kẻ trộm? Gã tới đây lấy đi những thứ trong các ngăn kéo tủ và tấm huân chương chính là kẻ đã giết Fred, - tôi nói. – Kẻ trộm thì lấy các thứ giấy tờ của Fred làm gì?

- Đúng thế.

Chúng tôi bước ra ngoài trong cái nóng hầm hập.

- Ta ra chỗ đầm nuôi ếch xem đi.

Chúng tôi đi tới đó và chỉ thấy ếch là ếch.

- Xong rồi, - tôi nói và châm thuốc hút. - Ta về thôi.

Tới chỗ đỗ chiếc Chevrolet của Bill, tôi hỏi:

- Liệu cảnh sát trưởng có lo lắng khi thấy cậu đi với mình không?

- Tôi đã xếp đặt cả rồi. Tôi đã nói với ông ấy cho tôi đi với anh để nắm được tình hình, đó là cách đề phòng tốt. Ông ấy rất hài lòng với ý tưởng của tôi.

- Đừng nói với ông ta quá dài dòng làm gì. Chỉ cần cho ông ta có cảm tưởng rằng mình chẳng tìm thấy gì hết. Mình có linh cảm cái lá nho này đang che đậy một điều gì đó quan trọng hơn mình tưởng.

- Ý anh muốn nói gì?

- Cậu cứ suy nghĩ đi, - tôi nói và ngồi vào xe. – Đây là một bài tập luyện tốt đối với cậu. Cậu đã nói chuyện với người bưu tá về thư tín của Jackson chưa?

- Chưa. Tôi không quên đâu, nhưng khó gặp Josh quá. Tôi hy vọng sẽ gặp ông ta tối nay.

- Đi gặp ông ấy đi, - tôi nói.

Tôi ngả người vào ghế trong khi Anderson chạy thẳng về Searle.

***

Trước khi chia tay với Anderson ở cửa đồn cảnh sát, tôi hỏi anh ta địa chỉ của bố Syd Watkins.

- Ông Wally Watkins ấy à? – Bill ngạc nhiên hỏi. – Anh muốn nói chuyện với ông ấy à?

- Tôi có thể gặp ông ấy ở đâu?

- Có một ngôi nhà nhỏ rất đẹp ở rìa làng. Đó là con đường thứ ba rẽ trái từ đường cái lớn, anh sẽ tìm thấy ngay thôi. Ở đó chỉ có một ngôi nhà duy nhất. Wally tới câu lạc bộ ba hay bốn tuần một lần. Ai cũng mến ông ấy. Bà Kitty, vợ Ông, và ông bố trí ngôi nhà rất đẹp. Khi bà Kitty qua đời, đó là một thảm kịch đối với ông Wally.

- Chuyện đó xảy ra hồi nào?

- Cách đây hai năm. Người ta kể rằng bà ấy quá đau buồn về chuyện thằng con trai, nhưng anh biết rồi đấy, những chuyện đồn đại ở nơi khỉ ho cò gáy thế này chẳng có giá trị bao nhiêu. Bác sĩ Steed nói bà ấy bị sưng phổi.

- Theo những điều mình nghe được thì Syd Watkins sống bừa bãi lắm.

- Đúng như vậy, nhưng anh còn lạ gì những bà mẹ nữa. Wally không đồng ý kiến với vợ. Ông ấy hoàn toàn không hợp với Syd.

Trước khi tới nhà Wally Watkins, tôi dừng lại ở xí nghiệp Morgan & Weatherspoon. Harry Weatherspoon vẫn đang ngồi làm việc. Thấy tôi bước vào ông nghiêm mặt nhìn rồi mỉm cười.

- A, ông thám tử Wallace! Ông khéo bịa với tôi về cái chuyện thu thập thông tin cho các nhà văn đấy nhỉ.

- Tôi rất lấy làm tiếc, ông Weatherspoon ạ. Nhưng kinh nghiệm dạy tôi rằng chẳng mấy ai muốn nói chuyện với các thám tử cả.

- Cũng không sao. Hình như ông vẫn còn hy vọng tìm thấy thằng cháu nội của ông già Jackson?

- Theo như tôi thấy thì hệ thống thông tin trong làng thông suốt gớm nhỉ.

- Tất nhiên rồi. Tất cả những gì xảy ra ở đây chi sau nửa tiếng cả làng đều biết.

- Tôi chỉ muốn hỏi ông vài câu.

- Không sao cả. Xin mời ông. Về vấn đề gì vậy?

- Ông già Jackson hàng tuần đều cung cấp cho ông một số lượng ếch nhất định. Tôi muốn biết ông trả cho ông ấy bao nhiêu?

- Để làm gì?

- Johnny sẽ là người thừa kế. Ông già Jackson sống rất hà tiện, nên rất ít tiêu phạ Ông ấy chắc phải còn cả đống tiền.

- Tôi hiểu. Xét cho cùng, tôi cũng chẳng giấu ông làm gì. Có những tuần nhiều, nhưng cũng có những tuần ít. Bình quân tôi trả ông ấy một trăm năm mươi đô một tuần

- Thế ông thanh toán với ông ấy như thế nào?

- Luôn luôn bằng tiền mặt. Tôi cho tiền vào phong bì rồi Abe đưa cho Jackson và Jackson gửi lại giấy biên nhận.

- Vậy thì ông ta phải tiết kiệm được một trăm đôla một tuần.

- Có thể lắm.

- Việc đó kéo dài được bao nhiêu năm rồi?

- Jackson là người cung cấp cho chúng tôi hơn hai mươi năm naỵ Tính cả tới những năm bội thu, ông ta phải kiếm được hai trăm đô một tuần.

- Bằng tiền mặt và không phải đóng thuế?

- Bằng tiền mặt, đúng như vậy. Còn chuyện thuế má thì tôi không biết.

- Tính đại khái thì ông ta cũng có được khoảng một trăm ngàn đôla để dành.

- Tôi không biết. Ông ta có thằng con trai tên là Mitch. Có thể ông ta cho nó tiền.

Tôi chợt nghĩ về cái lỗ ở dưới gầm giường Jackson. Đó chắc phải là nơi ông ấy giấu tiền. Thậm chí nếu tôi nhầm, thì chắc chắn ông ấy cũng đã mất một khoản tiền lớn.

- Thật đáng buồn là ông già tội nghiệp đã tự sát, - Weatherspoon nói tiếp. – nhưng ông ấy còn gì trên đời này nữa đâu. Tất cả chúng tôi đều thương tiếc ông ấy. Khu nuôi ếch của ông ấy rất năng suất.

- Ông có tính chuyện mua lại khu đất đó không?

Weatherspoon lưỡng lự và nhìn tôi với con mắt dò hỏi.

- Cũng có, - Ông ta nói. – Tôi biết một người nuôi ếch còn trẻ nhưng năng động lắm. Nếu mua được tôi sẽ cho anh ta thuệ Nhưng nó thuộc tài sản thừa kế của Jackson. Chừng nào chưa tìm được đứa cháu nội hoặc chưa chứng minh được là nó đã chết, thì tôi chẳng làm gì được.

- Chẳng làm gì được ư? (Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta).

- Khi tôi biết về cái chết ông ta, tôi đã tính chuyện mua khu đất đó. Người được ủy quyền của tôi chuyên lo việc đó. Tôi đã yêu cầu ông ta đăng thông báo tìm Johnny Jackson. Có thể ông sẽ giúp được chúng tôi cũng nên, ông Wallace ạ. Nếu ông tìm được Johnny, nhờ ông nói với cậu ta rằng tôi rất muốn nói chuyện với cậu ấy. Ông cũng nói với cậu ấy rằng tôi sẽ trả một giá rất hợp lý.

- Ai là công chứng viên của các ông?

- Ông Howard và ông Benbolt. Ông Benbolt lo tất cả các vụ việc của tôi.

- Ông cho phép tôi đi gặp ông ta chứ?

- Tất nhiên. Nhưng là về chuyện gì?

- Tôi đang tìm kiếm Johnny Jackson. Mà ông nói với tôi rằng Benbolt cũng đang tìm kiếm Johnnỵ Chúng tôi có thể tiết kiệm thời gian khi hai người không phải làm chung một việc.

- Ông cứ tới gặp. Địa chỉ của ông ấy có trong danh bạ.

- Rất tốt. Cám ơn ông Weatherspoon. Hy vọng chúng tôi sẽ tìm được thằng bé đó.

Tôi bắt tay ông ta rồi đi ra.

Chưa đầy mười lăm phút, tôi đã tới nhà ông Wally Watkins. Lời mô tả của Bill cho tôi còn thua xa thực tế. Đây là ngôi nhà nhỏ một tầng quét vôi trắng, đứng biệt lập với một mảnh vườn xinh xinh và một bãi cỏ tuyệt vời và những bông hồng đang khoe sắc. Một con đường nhỏ rải sỏi, hai bên lề xây gạch đỏ dẫn tới cửa nhà. Cái cơ ngơi nhỏ bé này dường như được chăm chút một cách không tiếc sức bởi những bàn tay thương yêu.

Wally Watkins ngồi trong chiếc ghế phôtơi lắc lư ở hiên nhà, miêng ngậm tẩu. Ông mặc một bộ complê trắng tuyệt đẹp và đội một chiếc mũ rộng vành.

Ông nhìn tôi bước xuống xe. Trông ông trạc ngoài bảy mươi: gầy, gương mặt rám nắng với bộ râu trắng như cước.

Ngay từ cái nhìn đầu tiên tôi đã cảm thấy mến ông.

- Xin phép được hỏi có phải ông là Watkins? – tôi hỏi và dừng lại trước mặt ông.

- Chính tôi đây. Chắc anh là Dirk Wallace, thám tử của đại tá Parnell. (Ông mỉm cười và bắt tay tôi). Anh đừng ngạc nhiên, thông tin ở cái vùng hoang vu này truyền nhanh lắm.

- Cháu biết, - tôi nói và xiết chặt tay ông.

- Xin lỗi anh là tôi không đứng dậy được. Tôi bị đau gối. Trước khi ta nói chuyện với nhau, mời anh vào nhà, tới bếp, qua cái cửa đầu tiên bên trái ấy. Trong tủ lạnh có uytski Êcốt và một chai nước gạ Ly thì ở bên phải tủ lạnh. Anh có thể làm ơn giúp tôi được chứ? (Ông nhìn tôi và mỉm cười hiền hậu). Vào nhà anh cũng nên ngó qua một chút để xem tôi sống thế nào.

Tôi làm đúng như yêu cầu của ông. Ngôi nhà vẫn được chăm sóc không chê vào đâu được. Phòng khách rộng và bếp được trang bị tốt. Tôi chuẩn bị đồ uống, đưa ra và ngồi xuống chiếc ghế cạnh ông già.

- Ông Watkins ạ, ông có thể không chỉ hãnh diện về ngôi nhà thôi đâu, mà còn hơn thế nữa kia.

- Cám ơn anh. (Ông già có vẻ rất sung sướng). Kitty là một nội tướng tuyệt vời. Bà ấy yêu ngôi nhà này lắm và chăm sóc nó chẳng kém gì chăm sóc tôi. Tôi không muốn bà ấy buồn. Tôi tin rằng những người thân yêu của chúng ta luôn ở bên cạnh chúng tạ (Ông chạm cốc với tôi và chúng tôi cùng uống). Có phải anh đang tìm Johnny Jackson?

- Đúng vậy. Ông có quen cậu ta không?

- Tất nhiên là có chứ. Đó là một thằng bé rất thông minh và đáng yêu. Ý tôi muốn nói là nó học giỏi lắm. Mà lại chăm chỉ nữa. Johnny phải đạp xe tám cây số đi học, sau đó lại về giặt giũ , làm cơm và giúp ông nó chăn nuôi và thu hoạch ếch. Mà nó yêu ông nó lắm. Theo điều tôi biết thì có thể nói rằng nó sùng bái ông nó.

- Thế thì tại sao nó lại bỏ đi?

- Đó cũng chính là điều tôi thắc mắc. Tại sao nó lại đột ngột bỏ đi như vậy?

- Ông Watkins này, ông có nghĩ là có chuyện gì đó đã xảy ra với thằng bé không? Liệu nó có bị bệnh chết hay chết vì tai nạn hay Fred không thừa nhận nó ở tòa thị chính?

Wally để rớt một chút rượu uytski, ông lẩm bẩm điều gì đó rồi rút khăn mùi soa lau quần.

- Ồ không, tôi không nghĩ là nó đã chết. Chết thì Fred đã báo ngay rồi. Chắc là ở trên đó đã xảy ra chuyện gì đó buộc thằng bé phải bỏ đi.

- Vậy cái gì đã xảy ra tới mức khủng khiếp như vậy?

- Tôi cũng luôn tự hỏi mình như vậy.

- Liệu có thể khi đã lớn, Johnny không chịu được phải sống vất vả nên đã bỏ đi không?

- Tôi đã nói với anh rồi. Thằng bé sùng bái ông nó lắm. Nó không thể bỏ ông nó mà đi được.

- Nhưng thực tế nó đã chả làm như thế là gì.

- Đúng thế.

- Thế ông có thân với Fred không?

- Còn hơn cả thân nữa kia. Có thời chúng tôi là bạn nối khố của nhau. Khi cá sấu cắn nát đùi ông ấy, tôi đã đi tiếp tế cho ông ấy. Hồi ấy Mitch còn ở nhà. Đối với Fred thì hắn là đứa con ngoan, còn với mọi người thì nó là tên quỷ sứ. Nó nhờ tôi trông nom bố nó. Cứ như là tôi sẽ bỏ mặc bố nó ấy. Tôi vẫn tiếp tế cho bố nó, nhưng mọi chuyện không như trước nữa. Fred trở nên trái tính trái nết. Ông không muốn để người ta nhìn thấy mình đi trên nạng. Rồi Johnny tới. Nó thường tới mua ở cửa hiệu của tôi ở ngay cổng trường học. Nó bảo tôi rằng ông nó không muốn tiếp khách và tôi không lui tới đó nữa.

- Fred có lấy vợ không?

- Tôi nghĩ là có. Chuyện cách đây đã hơn ba mươi năm rồi. Hồi đó tôi có mở một cửa hiệu thực phẩm, còn Fred làm thuê cho một người nuôi ếch trước khi mua khu đất hiện naỵ Tôi không hiểu sao Fred bỏ đi đâu đó chừng hai năm. Khi trở về ông có một ít tiền và dẫn theo thằng Mitch. Lúc đó thằng bé mới hơn một tuổi. Fred đã kể và bắt tôi giữ kín rằng mẹ thằng bé đã chết ngay khi sinh nó. Fred yêu và tự hào về thằng bé. Vào thời đó, tôi nhớ có lần Fred đã bảo tôi rằng nếu nó là con gái, ông đã cho người ta nuôi rồi. Có một đứa con trai là điều vô cùng quan trọng đối với ông.

- Ông có biết Fred để dành tiền không?

- Chuyện này thì tôi không biết, nhưng chính tôi cũng băn khoăn về chuyện này. Chắc là ông ấy phải để dành tiền.

- Chính vì nguyên nhân đó mà cháu muốn tìm Johnny, nó là người thừa kế duy nhất của Fred. Có người định mua lại trang trại đó.

- Weatherspoon phải không?

- Vâng.

- Anh đã gặp anh ta rồi à?

- Vâng.

- Anh ta tới đây khoảng mươi năm trước và mua tất cả những thứ hiện có lúc đó. Anh ta mua nhà máy ướp lạnh ếch, mua cửa hàng thực phẩm của tôi và tôi đoán rằng khi ông Bob tội nghiệp nhắm mắt, anh ta sẽ không chậm trễ mua nốt cả cái khách sạn.

- Bằng tiền kinh doanh ếch ư?

- Tôi không biết. Nhà máy phát đạt lắm, nhưng tôi không nghĩ là nó có thể mang lại nhiều tiền tới mức đó.

- Người ta nói rằng sau khi Johnny bỏ đi có một cô gái tới làm việc cho Fred.

- Lại chuyện lão Abe Levi chứ gì? Lão ấy nói có nhìn thấy cô bé, nhưng lão ấy thường say khướt ấy mà. Tôi không tin. Ở Searle này người ta có thể bịa đủ thứ chuyện.

- Abe nói rằng Johnny vẫn ở đó và cô bé sống với nó.

- Hoàn toàn là chuyện vớ vẩn do lão Abe bịa ra. Nếu ông ta có thấy ai khác ở đó thì đó là Johnnỵ Anh cứ thử nghĩ mà xem. Một cô bé liệu có thể sống với một ông già cụt cả hai chân, lại trái tính trái nết, ghét cay ghét đắng đàn bà con gái, giặt giũ cho ông ta và sống với lũ ếch ấy không? Không có con bé nào lại chấp nhận như vậy cả. (Wally bật cười). Không thể có chuyện đó được.

Tôi nghĩ có lẽ ông có lý.

- Thôi cháu không làm phiền ông nữa. – tôi nói. – những điều ông cho cháu biết rất lý thú. Sau này có gì cháu sẽ trở lại hỏi thêm ông sau.

- Thế anh có tới dự đám tang Fred không?

- Có lẽ là không. Khi nào ạ?

- Ngày mai, lúc mười một giờ. Cả làng đều có ở đó. Ở đây người ta rất thích tới các đám tang. Tôi cũng sẽ đi, dù gối có đau hay không.

- Ông có muốn cháu lấy xe đưa ông đi không?

- Anh tốt quá, nhưng cám ơn anh. Bob Wyatt đã hứa đến đón tôi rồi. (Ông lắc đầu). Ông ấy chắc là người đầu tiên sẽ đi theo Fred mất.

Tôi bắt tay ông già và trở lại Searlẹ Bước vào tiền sảnh của khách sạn tôi đã thấy Peggy đứng bên quầy tiếp tân. Cô cười rất tươi chào tôi.

- Anh có lấy chìa khóa không, Dirk?

- Cám ơn Peggỵ Cô có thể nối đường dây trực tiếp cho điện thoại của tôi được không? Tôi cần gọi gấp.

- Ba em đi vắng rồi. (Cô đưa cho tôi chìa khóa. Hơi thở đầy mùi rượu). Anh có muốn em lên phòng anh ít giờ để chứng minh cho anh thấy giường anh tuyệt vời tới mức nào không?

Tôi cảm thấy thương hại cô bé. Cô ta đã say và có vẻ tuyệt vọng vì lý do gì đó tôi không biết.

- Nghe đây, cô bé. Cô còn quá trẻ đối với tôi, - tôi dịu dàng nói. – Và nhớ đừng có uống rượu nữa.

Peggy đỏ mặt và lườm tôi.

- Anh không biết mình sẽ bị thiệt tới mức nào đâu.

- Thôi, hãy nối dây cho tôi đi. – Tôi nói và bỏ đến cửa thang máy.

Tôi lấy thang máy đi lên phòng. Mười phút sau tôi gọi cho Chick Barley.

- Anh có tin gì mới cho tôi không, Chick.

- Chưa có. Chắc phải một thời gian nữa.

Tôi nghe có tiếng thở của ai đó và hiểu ngay Peggy đang nghe trộm.

- Không cần đi vào chi tiết, - tôi nghiêm giọng. – Có kẻ đang nghe trộm. Nhưng anh khẩn trương giúp nhé. (Tôi gác máy).

Phần còn lại của buổi chiều tôi ngồi viết báo cáo về chuyến khảo sát khu nhà Jackson: phát hiện được một hố ở dưới giường và cuộc nói chuyện với Weatherspoon và Wallỵ Sau đó đến giờ ăn tối. Tôi cho bản báo cáo vào tủ khóa lại rồi đi xuống nhà ăn. Tôi ăn một suất bitết với khoai tây rán rồi trở lại phòng bật tivi và ngồi xem cho tới lúc buồn ngủ.

Tôi khóa trái cửa, đi nằm và ngủ thiếp đi.

***

Wally Watkins nói đúng. Dân Searle rất thích tới các đám tang.

Vào lúc mười giờ rưỡi, chuông nhà thờ đổ hồi. Theo tín hiệu đó mọi người trong làng đều đổ ra phố.

Sau bữa ăn sáng thịnh soạn, tôi lên phòng ngủ, ngồi trước cửa sổ quan sát những điều diễn ra trên đường phố. Tất cả đều đóng cửa: từ các cửa hiệu, văn phòng, bưu điện tới các trạm bán xăng. Chỉ trừ có đồn cảnh sát. Tất cả người lớn đều bận đồ đen, còn trẻ con bận đồ trắng. Cảnh tượng thật xúc động.

Xe tang chở chiếc quan tài bằng gỗ sồi với những chiếc móc tay bằng đồng sáng choang dẫn đầu đám tang. Ông cảnh sát trưởng Mason dẫn đầu đám người đưa tang. Sau ông một hai bước là bác sĩ Steed, rồi Harry Weatherspoon, Bob Wyatt, Wally Watkins tay chống can và Silas Wood. Trong đám đông tôi thấy cả ông già Abe Levị Không có hoa. Có lẽ dân chúng ở đây cho rằng góp tiền mua một chiếc quan tài sang trọng như thế này là đủ rồi. Tôi nhìn đám tang xa dần, rồi đi xuống tiền sảnh.

Peggy vẫn ngồi ở quầy tiếp tân. Cô nhìn tôi không cười như mọi lần.

- Người ta đang đưa tang ông già Fred. Đám tang to lắm, - tôi bắt chuyện.

- Tôi không nói chuyện với anh.

Tôi tiến đến bên quầy, tựa khuỷu tay lên đó và nhìn thẳng vào mắt Peggy.

- Cô đã nói dối tôi khi kể rằng cô và Johnny đã có quan hệ thân mật với nhau, phải vậy không?

Cô đỏ mặt và lườm tôi.

- Anh hãy xéo đi, đừng có quấy rầy tôi.

- Cũng nhũ tất cả các cô gái khác, cô ghét Johnny vì anh ta không để mắt tới cô, - tôi nói tiếp. – nhưng cô đã tìm cách chơi trội bằng cách kể cho các cô bé ngốc nghếch bạn cô rằng Johnny là tình nhân bí mật của cộ Tất nhiên là để cho cô có một uy tín nào đó. Rồi chính cô cũng tin vào chuyện dối trá của mình. Nhưng cô cũng như tôi biết rằng Johnny không hề quan tâm tới cô cũng như những đứa con gái khác.

Cô ta đột ngột quay người định tát tôi, nhưng tôi không mấy khó khăn nắm được cổ tay cô.

- Thôi nào, Peggy, ngoan nào.

Peggy giật tay ra, nét mặt nhăn nhó và dàn dụa nước mắt.

- Tôi ghét anh lắm! Johnny là thằng ẽo ợt dơ bẩn. Tôi yêu là yêu những người đàn ông chân chính! Rồi anh xem.

Cô ta quay nửa vòng rồi chạy trốn vào văn phòng, đóng sập cửa lại. Tôi rất thương cô bé, nhưng tôi phải làm sáng tỏ chuyện này và bây giờ tôi đã biết.

Tôi ra khỏi khách sạn, vào đồn cảnh sát. Bill Anderson ngồi trên bàn.

- Chào anh Dirk! – anh ta reo lên. – anh thấy đám tang chỗ chúng tôi thế nào.?

- Rất có ấn tượng. Cậu đã gặp ông bưu tá chưa?

- Đã gặp tối hôm quạ Josh có vẻ ngu ngơ thế nhưng có trí nhớ rất tốt. Ông ta nói với tôi Fred không bao giờ nhận được thư từ gì trước khi Mitch chết. Quân đội gửi huân chương của Mitch tới bằng thư bảo đảm. Đó là lần đầu tiên Fred nhận được bưu phẩm. Sau đó, khoảng sáu năm trước có một bức thư gửi cho ông tạ Josh vốn là người tò mò cho tôi biết rằng nó tới từ Miamị Rồi thư từ cứ đến đều đặn vào ngày mồng một hàng tháng.

- Hôm qua đã là ngày mồng năm rồi, thế thư tháng này đã tới chưa?

- Chưa. Người trao đổi thư từ với Fred chắc là biết ông ấy đã chết.

- Fred chết mới được ba ngày, Bill ạ. Như vậy người gửi thư biết trước là Fred sẽ chết.

Tôi để mặc Anderson ngồi há hốc mồm kinh ngạc và đi về khách sạn. Tiếng chuông báo tử đã dừng ngân. Tôi đoán đám tang đã kết thúc. Khi tôi lên thang máy, tôi không thấy Peggy ở quầy. Tôi thêm vào bản báo cáo của tôi rằng Peggy đã nói dối tôi về quan hệ thân mật với Johnny và Fred mỗi tháng nhận được một bức thự Tôi cho bản báo cáo vào tủ và khóa lại, rồi đi xuống ăn trưa.

Nhà ăn vắng tanh. Tôi ăn món thịt nguội và salad. Ông quản lý già nói với tôi rằng chỉ chốc nữa khi đám tang kết thúc, nhà hàng sẽ chật ních người. Tôi ăn vội vàng rồi quay ngay lên phòng.

Tôi thấy mọi người đi đưa đám về túa xuống đường phố và ai về nhà nấy. Tôi đợi thêm lát nữa trước khi ra chỗ đỗ xe lấy xe để đi ra nghĩa địa. Đối với ngôi làng quê mùa như Searle thì nghĩa địa này là khá lớn và được chăm sóc khá chu đáo. Phải mất một lúc tôi mới tìm ra mộ của Fred Jackson.

Trên mô đất mới đắp lên, tôi thấy có vài chục bông hồng đỏ, những bông hoa tuyệt đẹp mà sau này khi tới lượt mình, tôi cũng muốn người ta đặt lên mộ tôi.

Tôi tiến lại gần và thấy một tấm các gài vào một mẩu dây thép. Tôi cúi xuống và đọc dòng chữ đánh máy trên tấm các:

“Cầu cho ông nội từ nay yên giấc ngàn thụ Johnny”
Về Đầu Trang Go down
V.I.P

V.I.P


Tổng số bài gửi : 164
Points : 364
Join date : 19/11/2010
Age : 28
Đến từ : thiên đường

Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase    Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  I_icon_minitimeThu Nov 25, 2010 5:54 pm

Chương 4

Do phóng như bay, tôi về tới Paradise City chỉ ít phút trước sáu giờ chiều. Rất may là Chick vẫn còn đang dọn dẹp bàn làm việc.

- Mẹ kiếp! – anh ta thốt lên khi thấy tôi bước vào phòng làm việc. – Nghe đây Dirk, mình có hẹn với một cô bé, không thể tới chậm được.

- Cậu đúng là chả biết cóc khô gì. Cậu càng bắt họ đợi lâu, họ càng kích thích. Cậu có tin gì cho mình không?

- Cậu xem mình là ai vậy? Một thầy phù thủy chắc? Dù sao mình cũng có cái gì đó cho cậu đây. Nhưng không giúp ích lắm đâu. (Anh ta sốt ruột xem đồng hồ, rồi mở ngăn kéo bàn). Này, cầm lấy. Đây là một tờ báo cáo về Syd Watkins. Cho tới tận bây giờ mình vẫn chưa tìm được đầu mối gì về đám cưới của Mitch Jackson và sự ra đời của thằng bé. Theo sổ đăng ký của quân đội thì hắn độc thân, nhưng quân đội cũng có thể nhầm chứ.

- Thế Johnny Jackson không có đăng ký khai sinh à?

- Mình không biết gì hết. (Anh ta chìa cho tôi một bản báo cáo đánh máy). Cậu cầm lấy đi. Mình chuồn đây.

- Hượm đã nào, Chick. Cậu đã từng là quân cảnh trong trung đoàn của Parnell. Đơn vị của cậu có bao nhiêu phần trăm người nghiện ma túy?

- Lạy Chúa! Cái đầu của cậu đang suy nghĩ gì vậy? Cậu đang được giao nhiệm vụ tìm thằng cháu nội Jackson cơ mà.

- Đừng mất thời gian nữa, Chick. Có bao nhiêu phần trăm người nghiện ma túy trong trung đoàn của Parnell?

- Đó là câu chuyện cũ rích rồi, nhưng thật đáng lo ngại. Ở đó tất cả các trung đoàn đều vấp phải vấn đề này. Nhưng không liên quan đến mình. Có cả một êkíp của phòng chống ma túy lo chuyện đó. Họ là những người chuyên nghiệp mà.

- Thế họ không gửi báo cáo về trung đoàn của cậu à?

- Mình nghĩ là có, nhưng nó được thông báo trực tiếp cho đại tá.

- Trưởng kíp chống ma túy là người như thế nào?

- Đó là đại tá Jefferson Haverford. Ông ấy là bạn lớn của đại tá Parnell.

- Hiện ông ta sống ở đâu?

Chick nhíu mày nhìn tôi.

- Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra trong óc cậu vậy? Đại tá không muốn người ta đào bới chuyện đó đâu. Ông vốn rất kiêu hãnh về trung đoàn của mình và ông hoàn toàn có cơ sở để làm vậy.

- Mình có thể gặp đại tá Haverford ở đâu?

- Ông ấy hiện sống ở đây, cậu có thể tìm theo danh bạ điện thoại. Nhưng phải thận trọng, Dirk ạ. Đại tá sẽ không hài lòng việc cậu đào bới lại chuyện cũ đâu. Mình phải đi đây, kẻo không cô bồ của mình sẽ bóp nát của gia bảo mình mất.

Đoạn, anh ta vụt chạy ra cửa. Tôi châm thuốc, rót một ly vừa nhâm nhi vừa đọc bản báo cáo ngắn về cuộc sống quân ngũ của Syd Watkins.

Bản báo cáo cho biết Syd Watkins nhập ngũ và được biên chế vào một đơn vị cung cấp bom cho máy baỵ Anh ta làm việc trong suốt bốn năm tại một căn cứ không quân ở Việt nam. Sau khi giải ngũ anh ta về Mỹ cùng với các đồng đội khác. Địa chỉ cuối cùng của anh ta mà quân đội nắm được là một ngôi nhà ở phía đông New York. Sau đó anh ta mất tăm. Báo cáo dừng lại ở đó.

Điều duy nhất khiến tôi quan tâm là Watkins và Mitch ở Việt nam cùng một thời gian.

Tôi đặt bản báo cáo vào cặp hồ sơ, rồi tìm điện thoại của đại tá Haverford. Đại tá sống trong một căn hộ thuộc tòa nhà ở phố Đại dương, một khu phố sang trọng ở Paradise City.

Đích thân ông trả lời tôi qua điện thoại.

- Tôi Haverford đây, - Ông nói bằng một giọng nghiêm nghị.

- Thưa đại tá, tôi là Dirk Wallace, nhân viên của đại tá Parnell, - tôi tự giới thiệu.

- À, thế hả. Anh là nhân viên mới, phải không? Đại tá Parnell có nói với tôi về anh. Có chuyện gì vậy, Dirk?

- Cháu đang phải đối phó một vấn đề. Bác dành cho cháu ít phút, được không?

- Sao, một vấn đề à?

- Đây là một vụ mà cháu đang điều trạ Cháu có cảm giác là vụ này có liên quan đến việc buôn bán ma túy trong quân đội. Cháu nghĩ bác có thể giúp cháu lần ra manh mối.

- Thôi được, mười phút nữa cháu hãy đến đây. Tôi được mời ăn tối lúc tám giờ.

Nói đoạn, ông gác máy.

Phố Đại dương chỉ cách văn phòng tôi chừng ba phút xe hơi. Bảy phút sau tôi ấn chuông cửa nhà đại tá Haverford.

Người hầu – một bà da đen – dẫn tôi qua một phòng khách lớn tiện nghi sau khi đi qua một hàng hiên nhìn ra đại lộ có hàng cọ ngăn cách với một bãi cát tuyệt đẹp. Haverford đang ngồi trên một chiếc ghế dài. Nhìn thấy tôi, ông đứng dậy. Hồng hào, hơi nhỏ con và béo tròn, Haverford có gương mặt nhà binh, hàng ria bạc trắng được tỉa cầu kỳ và bộ tóc cắt ngắn.

- Wallace hả? – ông hỏi và chìa tay cho tôi bắt.

- Vâng, - tôi nói.

- Tốt lắm, ngồi xuống đi. Một ly uytski chứ?

- Vâng, cám ơn bác.

Ông đi lấy hai ly ở quầy rượu, đưa đến cho tôi một ly rồi ngồi xuống.

- Nào, có vấn đề gì?

- Cháu nghe nói ở Việt nam bác chuyên lo về vấn đề ma túy, - tôi nói.

- Đúng vậy.

- Người ta yêu cầu hãng cháu tìm đứa con trai của Mitch Jackson. Trong quá trình điều tra, cháu biết Mitch có bán ma túy.

Rồi ông nhún vai.

- Tôi cũng đã nghĩ rằng, rồi một ngày nào đó chuyện này cũng sẽ tới. Anh nói chuyện với ông chủ của anh chưa?

- Chưa. Đại tá đang ở Washington, cháu chưa thể gặp được. Chính vì thế cháu mới tìm bác. Liệu người ta đã có bằng chứng về Jackson bán ma túy chưa ạ?

- Hãy nghe kỹ đây, anh bạn trẻ. Mọi người hiện đều xem Mitch là một anh hùng. Chúng ta không nên làm vấy bẩn danh tiếng của một người đã hy sinh mình để cứu sống mười bảy mạng người.

- Như vậy đúng là anh ta đã bán ma túy?

Đại tá lưỡng lự một lát, rồi gật đầu.

- Đúng. Chúng tôi sắp bắt anh ta như nhiều kẻ bán ma túy khác. Người trợ lý của tôi đã thu thập đủ bằng chứng về Jackson và đã có lệnh bắt. Đúng lúc đó thì xảy ra chuyện anh ta lao vào rừng cứu người và đã hy sinh một cách bi thảm. Tôi rất căm ghét những kẻ bán ma túy. Nhưng Jackson lại là một chiến sĩ dũng cảm. Anh thử nghĩ xem dư luận sẽ thất vọng ghê gớm tới mức nào nếu chúng ta để lộ ra rằng trước khi chết như một người anh hùng, anh ta là một gã nhơ nhuốc, đại tá Parnell không hề biết chuyện này. Chúng tôi đã lờ chuyện này đi. Đấy, chuyện là như vậy, anh bạn trẻ ạ. Tôi khuyên anh cũng nên làm vậy.

- Đây có thể là chuyện cái lá nho, - tôi nói. – Ý cháu muốn nói là một sự che đậy. Nhưng cháu vẫn muốn tiếp tục điều trạ Bác có biết Jackson đã cưới vợ và có con trai không?

- Theo tài liệu lưu trữ chỗ tôi thì trước khi nhập ngũ, Jackson là một tên du thủ du thực. Hắn có một hồ sơ rất xấu. Nhưng khi trong quân ngũ, hắn được nhận xét rất tốt. Không có một thượng cấp nào nghi ngờ những hoạt động của nó. Nếu không có trợ lý của tôi, đại úy Harry Weatherspoon, truy tìm ráo riết những kẻ bán ma túy, thì Jackson chắc đã hốt bạc.

Tôi ngồi im cố không để lộ rõ những điều tôi đã linh cảm thấy.

- Đại úy Harry Weatherspoon? Hiện nay anh ta ra sao ạ?

- Cậu ta đã giải ngũ. Tôi có nghe nói cậu ta mua một nhà máy liên quan đến ếch nhái gì đấy. Tôi lấy làm lạ vì cậu ta đã từng là một nhân viên xuất sắc của cơ quan chống ma túy của quân đội. (Ông xem đồng hồ). Tôi cần phải thay đồ rồi. Trước khi tiếp tục điều tra nên xin ý kiến Parnell. Tôi không hiểu sao việc tìm đứa con của Jackson lại quan trọng như vậy.

Chúng tôi bắt tay nhau rồi tôi ra về.

Lúc đó đã là bảy giờ kém hai mươi. Tôi quyết định trở về nhà. Tôi cần phải suy nghĩ một cách bình tĩnh và không muốn đi ra ngoài nữa.

Tôi mở cửa phòng, tay lăm lăm khẩu 38 lỵ Không có thằng du đãng nào đợi tôi ở đây cả. Tôi khóa trái cửa và nhét súng vào bao. Tôi ngồi xuống ngẫm nghĩ về những điều vừa xảy ra trong ngày. Tôi cảm tưởng công việc đã có tiến triển. Tôi tự nhủ ngày mai sẽ tới gặp Howard và Benbolt – các công chứng viên của Weatherspoon, rồi sẽ quay về Searlẹ Tôi cũng muốn gặp lại Wally Watkins, nói chuyện với Josh – người bưu tá và tất nhiên cả Weatherspoon nữa.

Trong khi uống uytski, tôi thấy trong tôi đang lớn dần một linh cảm không mấy dễ chịu là Parnell sẽ không cho tôi tiếp tục điều tra nữa, nếu tôi kể cho ông tất cả những điều tôi phát hiện cho tới naỵ Tôi mừng là ông đang ở Washington.

***

Sau khi ăn sáng muộn, tôi đi tới văn phòng Howard và Benbolt ở Miamị Họ đều ở tầng năm của một tòa văn phòng rất đẹp ở phố ba mươi sáu tây bắc. Một người đàn bà cao lớn tóc muối tiêu ngồi ở phòng tiếp tân. Bà nhìn tôi với đôi mắt lạnh và không mấy thiện cảm.

- Tôi muốn gặp ông Benbolt, - tôi mỉm cười nói và đưa cho bà ta danh thiếp.

Bà ta xem danh thiếp của tôi và quẳng ngay xuống, cứ như sợ nó làm bẩn ngón tay.

- Ông có hẹn trước không?

Tôi đáp rằng không.

- Ông Benbolt chỉ tiếp những thân chủ có hẹn trước.

Tôi đáp rằng tôi không phải là thân chủ. Tôi chỉ muốn trao đổi một vài lời với ông Benbolt thôi, tất nhiên nếu ông ấy không quá bận.

- Thế thì ông tới không đúng lúc rồi.

Mụ già làm tôi hơi bực mình. Nhưng tôi vẫn cố tươi cười rằng tôi lấy làm tiếc và hỏi lúc nào có thể tới gặp được.

Bà ta nhìn tôi một lúc dường như xem có phải tôi chế nhạo bà ta không, rồi nhấn máy điện thoại nội bộ:

- Có ông Wallace nào đó của hãng thám tử tư Parnell muốn gặp ông, ông Edward ạ.

Một giọng chân thành vang lên trong máy.

- Cho ông ấy vào gặp tôi, cô Lacey.

Bà gái già tắt máy và giơ ngón tay chỉ cho tôi một cái cửa.

- Sau cửa này, đi theo dọc hành lang vào cửa thứ ba bên phải.

Tôi cám ơn, đi vào một hành lang rộng, rồi gõ cửa thứ ba bên phải. Một giọng vang và chân thành mời tôi vào. To lớn và phương phi, Benbolt cho tôi ấn tượng là một người giàu có. Ông trạc ngoại tứ tuần. Chiếc sơ mi Cardin, cúc măng sét bằng vàng, mái tóc đen bóng nhẫy, gò má hồng hào, tất cả đều toát ra một vẻ giàu có và tự tin.

- Mời ông vào, ông Wallacẹ (Ông chìa tay cho tôi. Bắt tay ông tôi có cảm giác bàn tay như được làm bằng một thứ bột nhão).

Tôi đoán rằng bàn tay ông chỉ quen dùng dao và nĩa.

- Mời ông ngồi. Ông Weatherspoon có điện thoại cho tôi nói rằng ông sẽ qua đây.

Ông ta cười để lộ cả hàm răng có phủ một lớp men đắt tiền.

- Ông ta cũng đã nói với tôi rằng tôi có thể giúp ông giải quyết một vấn đề nhỏ gì đó. Chúng tôi đều biết hãng Parnell, một hãng vào loại tốt nhất bây giờ.

- Chắc Weatherspoon cũng đã nói với ông tôi là đại diện của ông già Fred Jackson quá cố trong việc tìm kiếm đứa cháu nội của ông ấy., -tôi nói.

- Đúng như vậy. Chúng tôi cũng đang thử tìm kiếm nó. Tất cả chuyện này có vẻ bí ẩn thế nào ấy, phải không? Ông Weatherspoon có ý định mua lại khu chăn nuôi ếch của Jackson, nhưng tôi không thể làm gì trước khi tìm được người thừa kế của Jackson.

- Ông có chắc Johnny Jackson là người thừa kế của Jackson không?

- Không còn gì phải nghi ngờ. Tôi đã xem bản sao của tờ di chúc.

- Thì ra có một tờ di chúc?

- Đúng như thế. Ông già Jackson đã di chúc để lại toàn bộ tài sản của mình cho con trai là Mitch và trong trường hợp người này chết thì cho người nối dõi anh ta, nhưng với điều kiện phải là con trai, thừa kế.

- Điều này có nghĩa là loại bỏ vợ của Mitch?

- Nếu anh ta có vợ thì đúng là như vậy. Nhưng cho tới nay, không có gì chứng minh là Mitch đã lấy vợ.

- Nhưng trong trường hợp đó Johnny là đứa con ngoài pháp luật. Điều này có cản trở nó được nhận tài sản của ông nó không?

- Không. Khi dùng thuật ngữ “nối dõi” là Jackson đã tính chuyện đó.

- Hiện nay ai là người giữ bản di chúc gốc?

- Ông Willis Pollack, một công chứng viên ở Searle, - Benbolt nói với vẻ kẻ cả. – Tôi đã gọi điện cho ông tạ Ông cho biết rằng Jackson làm di chúc khi Mitch nhập ngũ. Ngoài khu chăn nuôi ếch dường như ông ta chẳng để lại gì. Khu này thực ra chẳng có giá trị mấy và ông Weatherspoon sẵn sàng trả năm ngàn đôla, không hơn một xu.

Tôi nghĩ tốt nhất là không nói với tay công chứng viên lúc nào cũng tươi cười này về cái hố dưới gầm giường của Fred. Tôi gần như chắc chắn là có một khoản tiền lớn đã được giấu dưới đó.

- Thế việc tìm kiếm của ông có tiến triển gì không, ông Wallace?

- Hiện thì chưa. Johnny đã biến mất đã khá lâu rồi. Mọi dấu vết đã lu mờ. Nhưng tôi sẽ cố. Vả lại, tôi mới nhận vụ này được có mấy ngày. Tôi chỉ muốn gặp ông để tin rằng chúng ta không để mất thời gian và tiền bạc khi cùng lần theo một dấu vết.

Cái cớ của tôi khiến ông ta có vẻ hài lòng. Ông gật đầu tỏ ý đồng tình.

- Chúng tôi đã cho đăng thông báo trên các báo. Đúng như ông nói, mọi chuyện đều mới bắt đầu. (Ông ta nhìn chiếc đồng hồ Ômêga bằng vàng). Thôi thế nhé. Ông muốn chúng ta thường xuyên liên lạc với nhau chứ?

Ông ta đứng dậy và chìa tay cho tôi. Tôi bắt tay và nói sẽ liên lạc lại sau. Tôi cũng đề nghị Ông cho tôi biết nếu có phản hồi từ các thông báo và đưa cho ông danh thiếp của tôi.

Ba giờ sau tôi đã có mặt ở nhà ăn khách sạn Jumping Frog. Khi tôi đi qua tiền sảnh thấy Bob Wyatt đứng ở quầy tiếp tân. Ông gật đầu thân thiện chào tôi. Tôi ngồi vào một bàn ở mãi trong góc, chào và mỉm cười với mọi người và ăn món gà Maryland tuyệt vời. Ăn trưa xong tôi hỏi Abraham, người quản lý da đen, địa chỉ của Willis Pollack, công chứng viên ở Searlẹ Sau khi uống xong cà phê, tôi đi tới văn phòng của Willis Pollack được đặt bên trên một cửa hiệu kim khí.

Tôi có cảm giác như mình đang đi vào một trường quay phim dựng lại cảnh từ những năm 1800. Một bà già bé nhỏ tóc trắng như tuyết, mặc bộ đồ đen ngồi sau một chiếc bàn nhỏ với chiếc máy chữ Remington có lẽ thuộc lô xuất xưởng đầu tiên. Căn phòng rộng xếp đầy những chiếc hòm nhỏ đựng hồ sơ không còn dùng nữa. Cạnh cửa sổ là một chiếc bàn rộng hơn của Willis Pollack. Tôi dừng lại ở ngưỡng cửa và đứng nhìn ông.

Willis Pollack đã ngoài tám mươi, vóc người nhỏ thó, bộ ria bạc trắng và đôi mắt nâu còn rất tinh anh. Ông có vẻ như tàn tích của thế kỷ trước.

- A, anh Wallace! – ông nói. – Mời anh vào đây.

Ông già đứng thẳng dậy, nụ cười chân thành làm rạng rỡ khuôn mặt nhăn nheo và tàn tạ bởi thời gian.

- Bà đây là Daisy, bà vợ yêu quý của tôi. – ông giới thiệu. – Trong khi tôi chuyện vãn, bà ấy làm đủ mọi công việc.

- Thôi nào, Willis. (Bà nhìn tôi). Ông nhà tôi lúc nào cũng nói quá lên ấy mà! Tôi cứ tự hỏi dân trong vùng này sẽ ra sao nếu không có ông ấy.

Gần như trong mơ, tôi bước vào căn phòng chiếu sáng lờ mờ, tới bắt tay Pollack, rồi bắt tay bà Daisy.

- Tôi giúp gì được anh đây? – ông hỏi.

- Như bác biết đấy, bác Willis ạ, cháu đang tìm kiếm Johnny Jackson.

Rồi tôi kể cho ông ấy về bức thư của Jackson gửi cho hãng tôi, nói với ông rằng đại tá đã nhận của ông già Jackson một trăm đôla và giao cho tôi điều tra vì Mitch là một người anh hùng.

- Cháu cũng đã tới gặp ông Benbolt và ông ấy cho biết rằng Fred Jackson có soạn một di chúc để ở chỗ bác. Cháu rất muốn biết bản di chúc đã được soạn như thế nào và vào thời gian nào.

Pollack quay người về phía bà vợ.

- Bà cho anh ấy xem bản di chúc đi. – ông nói âu yếm.

Bà già đi tìm tờ giấy trong hòm tài liệu và đưa lại cho tôi. Lời lẽ trong bản di chúc cực kỳ đơn giản.

Tôi, Fred Jackson, ký tên dưới đây, di chúc để lại toàn bộ động sản và bất động sản của tôi cho con trai tôi là Mitch Jackson. Nếu Mitch chết trước tôi thì toàn bộ tài sản được trao cho những người nối dõi nó là con trai, bất kể trong hay ngoài giá thú. Nếu không có con trai, thì toàn bộ tài sản này sẽ thuộc về Quỹ cựu chiến binh để trợ giúp cho những người bị cụt chân cụt tay như tôi.

Bên dưới là chữ ký vụng về khó mà đoán ra nổi. Có cả chữ ký của Willis và Daisy Pollack với tư cách là người làm chứng.

- Bất kể trong hay ngoài giá thú? – tôi nói và nhìn Pollack. – Một câu lạ thật.

Ông già vuốt râu cười.

- Chả có gì là lạ cả. Fred thừa biết con trai ông ta không phải loại người thích hợp với hôn nhân. Ông đã dự liệu trước rằng Mitch có thể có con ngoài giá thú. Fred không quan tâm tới con gái. Rồi Johnny tới. Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên kể từ khi thằng Mitch ra đi, ông già Fred mới cảm thấy hạnh phúc.

- Thế bản di chúc này được lập khi nào?

- Ngay khi Mitch nhập ngũ, Fred yêu cầu tôi cùng với Daisy tới gặp ông ta vì ông muốn lập di chúc. Chúng tôi đi tới đó. (Ông già lắc đầu). Rất lâu trước kia, tôi và Fred đã từng là bạn thân. Nhưng khi Fred mất đôi chân, ông ấy sống cách ly hoàn toàn. Daisy và tôi bị sốc mạnh khi thấy cảnh ông sống khốn khổ như vậy. Ông nói một cách lạnh lùng và chính xác ông muốn soạn một di chúc như thế nào. Tôi hỏi ông có muốn để lại chút gì cho vợ Mitch , nếu nó lấy vợ không. Fred tỏ ra rất khó chịu nói với tôi rằng di chúc là của ông và cần phải viết đúng như ông đã dự liệu. Tôi viết theo lời đọc của Fred, rồi ông ta ký tên. Tôi và Daisy cũng làm như vậy với tư cách là hai người làm chứng. Tôi tin Fred không để lại tiền bạc gì. Ông ta chỉ có đất đai và ngôi nhà chẳng có giá trị bao nhiêu. Vì vậy tôi không nài ông ta viết chi tiết hơn.

- Điều gì khiến bác nghĩ rằng ông ta không có tiền bạc gì?

- Theo cái cách mà ông ta sống, anh Wallace ạ. Nếu không thiếu tiền thì không ai chịu sống khổ hạnh như vậy. Fred không có tài khoản ở ngân hàng và người ta cũng không tìm thấy tiền ở nhà ông ta.

- Thế ai đã tới tìm?

- Bác sĩ Steed và ông Weatherspoon đã tới đó ngay sau khi Fred qua đời. Bác sĩ Steed nói rằng ông ta đã tìm khắp nơi và không thấy có giấy tờ cũng như tiền bạc gì.

- Thế còn ông Weatherspoon? Ông ta tới đó làm gì?

- Ông ta muốn mua khu đất của Fred. Và cũng do ông ấy với bác sĩ Steed là bạn thân mà. Vả lại bác sĩ Steed nghĩ trong khi khám xét ngôi nhà nên có một người làm chứng.

- Họ có thấy lạ là ông Jackson không để lại giấy tờ gì không?

- Có chứ. Tôi cũng lấy làm lạ. Nhưng Steed nói rằng trước khi tự sát, Fred chắc đã đốt hết mọi thư từ và giấy tờ rồi.

- Bác có ngạc nhiên khi biết Fred tự sát không?

- Có chứ. Đó là một cú sốc lớn đối với vợ chồng tôi. Việc Johnny bỏ đi đã giáng cho ông một đòn chí tử. Ở vào tuổi ông, lại mất đôi chân, chắc ông ấy nghĩ rằng chết là cách giải thoát tốt nhất.

- Như vậy bây giờ phải tìm cho được Johnnỵ Cám ơn bác đã dành thời gian cho cháu. Sau này nếu cần được giúp đỡ, cháu xin phép được trở lại quấy rầy bác đôi chút.

- Đừng có ngại gì, anh Wallace ạ.

Nói đoạn, ông bắt tay tôi. Tôi tới bắt tay bà Daisy rồi đi xuống cái cầu thang ọp ẹp và bước ra đường phố oi nồng.

Vụ này bắt đầu là một câu đố ghép hình hóc búa. Nhưng rồi dần dần, các mẩu hình đã bắt đầu ăn khớp với nhau.

Tôi tới nhà bưu điện, một cô gái trẻ mặt đầy mụn trứng cá, mang đôi kính dầy cộm ngồi sau lưới mắt cáo. Đúng lúc tôi đến trước mặt thì cô đang ngáp, chợt nhìn thấy tôi cô nở vội một nụ cười đầy hy vọng.

- Chào anh Wallace! Bưu điện Searle sẵn sàng phục vụ anh.

- Cám ơn. – tôi nói. Ông Josh có đây không?

- Ông ấy đang chọn thư trong kia. (Cô chỉ một cái cửa). Anh đã tìm được Johnny chưa?

- Chưa. Nếu tìm thấy, cô sẽ là người đầu tiên được biết.

Cô gái cười khanh khách.

- Em hiểu. Làm thám tử thích thật đấy.

- Cô nói thật không?

Rồi tôi đi đến cái cửa cô gái đã chỉ. Tôi mở cửa rồi bước vào phòng chia thư.

Đứng trước quầy là một người đàn ông béo tròn và hói đầu, trạc ngoài sáu mươi, đang chia một đống thự Miệng ông ngậm tẩu và chiếc kính tụt tới gần đầu mũi.

- Ông có thể dành cho tôi ít phút được không? – tôi hỏi.

Ông ngước mắt nhìn, gật đầu rồi lại cúi xuống chọn thư.

- Tôi là Dirk Wallacẹ Bill Anderson chắc đã nói với ông về tôi. Tôi đang tìm kiếm Johnny Jackson.

Ông bưu tá gật đầu, mắt vẫn không rời chồng thư.

- Anderson có nói với tôi rằng cứ vào ngày đầu tháng ông lại chuyển một bức thư cho Jackson. Chuyện đó diễn ra từ ngày Mitch chết. Tháng nào cũng như tháng nào trong suốt sáu năm… có đúng vậy không?

Lại gật đầu. Ông bưu tá vẫn không thốt lời nào.

- Những bức thư đó có phải từ Miami tới không? (Lại gật đầu). Và bây giờ không có thư nào tới nữa? (Lại gật đầu). Người ta cũng nói với tôi rằng chính ông đã cho Johnny đi nhờ xe đến nhà ông già Jackson khi nó vừa mới tới Searle.

Lại gật đầu.

Tôi khó khăn lắm mới kìm được không nổi cáu.

- Trong lúc cho thằng bé đi nhờ ông có nói chuyện với nó không? Ông có hỏi nó từ đâu tới không?

Với một vẻ chậm chạp đến bực mình, rốt cuộc ông bưu tá cũng chia thư xong. Ông rít một hơi thuốc, tựa hai cánh tay lên mặt quầy, rồi nhìn tôi cười thân mật.

- Xin lỗi anh, tôi chỉ có thể mỗi lúc làm một việc thôi. Bây giờ soạn xong đống thư rồi, tôi có thể tiếp chuyện với anh. Anh đang nói với tôi về Johnny Jackson phải không?

- Đúng vậy. Khi ông cho Johnny đi nhờ ông có hỏi nó từ đâu đến không?

- Tất nhiên là có chứ. Nhưng thằng bé chỉ nói là nó tới từ một nơi rất xạ Theo gương mặt nhợt nhạt và mệt mỏi của nó, tôi hiểu rằng nó không muốn nói chuyện. Tôi vốn tôn trọng cuộc sống riêng tư của người khác. Và thế là tôi thôi không hỏi gì nữa.

- Khi ông dẫn thằng bé tới nhà có chuyện gì xảy ra không?

- Tôi không đưa nó vào nhà. Tôi cho nó xuống cạnh đường rồi chỉ nhà cho nó. Tôi nghĩ tôi có thể nói với anh điều này nữa. Chuyện này tôi chưa hề kể với ai. Vả lại cũng lâu lắm rồi. Thực lòng tôi rất muốn giúp anh tìm lại Johnnỵ (Ông rít một hơi thuốc và có vẻ lưỡng lự).

- Ông còn muốn nói gì với tôi nữa? – tôi hỏi. – Xin ông hãy nghe tôi. Johnny là người thừa kế của ông già Jackson. Giúp tôi tìm Johnny tức là ông giúp ông già Jackson đấy.

- Anh nói đúng. Cuối cùng, thằng bé xuống xe và cám ơn tôi rất tử tế. Rồi nó lấy trong túi ra một chiếc phong bì. Đã mười năm trôi qua rồi, nhưng tôi còn nhớ vẻ mặt lo lắng của nó khi nó nhìn tôi. Nó bảo rằng nó không có tiền mua tem. Nó nhờ tôi bỏ giúp nó vào thùng thư ở bưu điện. Nó bảo việc này rất quan trọng. Tôi đã làm giúp nó. Tôi nhìn thấy nó lần cuối cùng khi nó lên dốc đi vào nhà.

- Như vậy, ý ông muốn nói trong suốt sáu năm trời, tháng nào ông cũng đưa thư tới cho Jackson, nhưng không bao giờ gặp thằng bé, phải không?

- Đúng vậy. Xe tôi kêu ầm ĩ lắm nên Fred nghe thấy tôi tới. Lần nào ông cũng lết ra chỗ đường ngoặt lấy thư, lầm bầm mấy câu rồi quay về.

- Thế ông có bao giờ hỏi thăm sức khỏe thằng bé không?

- Tôi rất muốn làm điều đó, nhưng ông già chẳng bao giờ nói gì. Ông ta cầm lấy thư rồi quay đi ngaỵ Tôi thường phát thư vào lúc thằng nhỏ đến trường nên không bao giờ gặp nó. Fred thậm chí chẳng nói gì ngay cả lần tôi mang tới cho ông huân chương của con trai. Tôi hiểu đó là huân chương vì thấy có hộp và bao gói cẩn thận. Ông giật nó từ tay tôi, ký nhận rồi bỏ đi.

- Thế bức thư mà Johnny đưa cho ông… tôi biết đã mười năm trôi qua, nhưng ông còn nhớ nó gửi cho ai không?

- Ồ, có chứ. Tôi vốn tò mò mà. Hơn nữa, thằng bé như từ trên trời rơi xuống và lại tìm gặp lão già Fred thì ai không tò mò muốn biết.

- Tôi hiểu. (Tôi cố không nén hét lên vì vui sướng). Thế bức thư gửi cho ai?

- Bức thư ấy à? Nó được gửi cho bà Stella Costa, phố Macey ở Secomb, số bảy hay chín gì đó.

Tôi tự hỏi không biết mình đã chạm đúng mỏ vàng hay chưa

- Bà Stella Costa, số bảy hay chín phố Macey ở Secomb.

Ông bưu tá gật đầu.

- Đúng vậy.

- Cám ơn ông Josh, - tôi nói. – Ông đã giúp tôi rất nhiều.

- Tôi quý thằng bé lắm! Nếu Fred có để lại tiền bạc thì tôi sẽ rất mừng nếu thằng bé nhận được nó.

Tôi bắt tay Josh và đi nhanh ra chỗ đỗ xe. Tôi phải nhanh chóng tìm được bà Stella Costa.

***

Paradise City nổi tiếng là thành phố đắt đỏ và xa hoa nhất thế giới. Để giữ được tiếng tăm đó và chiều chuộng những gã tỷ phố sống ở đây, thành phố phải sử dụng cả một đội quân lao động, quét dọn đường phố, phục vụ khách sạn và hộ sĩ. Đội quân khổng lồ đó đóng ở Secomb, cách thành phố hai cây số.

Secomb rất giống West Miamị Đây là một thành phố nhỏ với những ngôi nhà lụp xụp, những khách sạn rẻ tiền, những quán bar và hộp đêm mờ ám.

Phố Macey xuất phát từ đường Seaview, một trung tâm thương mại của thành phố.

Nhà số bảy là một cửa hiệu may nhỏ. Từ ngưỡng cửa, ông chủ người Hoa đã tươi cười mời chào. Tôi đi tiếp. Nhà số chín xem ra có vẻ hứa hẹn hơn. Tôi thấy một cái cửa nhỏ kẹp giữa một hiệu ăn Tàu và một hiệu thuốc. Bên trên cửa có treo tấm bảng “cho thuê phòng”. Tôi bước vào. Ở bên trái có một cánh cửa ghi “văn phòng”. Tôi gõ cửa, mở ra và bước vào một căn phòng nhỏ. Một người da đen ngồi sau chiếc bàn nhỏ đang say sưa đọc báo. Ông ta trạc ngoài bảy mươi, tóc đã bạc trắng.

Ông ta đặt tờ báo thể thao đang đọc dở xuống bàn, nhìn tôi cười nghi vấn và tinh quái.

- Ông nghĩ gì về cuộc đua ngựa ba giờ chiều mai? – ông ta hỏi.

- Tôi không biết. Tôi không chơi cá ngựa.

- Tôi cũng đã ngờ như vậy. (Ông già gật đầu). Thế anh có tìm thuê phòng không?

- Không. Tôi tìm bà Stella Costa.

Ông ta nhướn hàng lông mày rậm.

- Một người trẻ tuổi ăn mặc lịch sự, không chơi cá ngựa như anh mà lại dây dưa với loại người như Costa sao?

Tôi mỉm cười thân thiện.

- Nếu bà ta muốn thì tự bà ta sẽ cho ông biết.

Ông ta có vẻ suy nghĩ về những điều tôi vừa nói, hết nhấc kính lại đeo vào.

- Bà ta đâu có thèm trả lời tôi.

- Tệ quá nhỉ. Thế phòng bà ấy ở đâu?

- Phòng của Stella ấy à?

- Tôi không có nhiều thời gian đâu. Có thể tìm bà ta ở đâu?

- Chắc chắn là bây giờ không có ở đây. Bà ta đã chuyển đi từ nhiều năm rồi.

Tôi lấy một chiếc ghế và ngồi dạng chân ra hai bên.

- Mà tôi chưa biết tên ông.

- Cứ gọi tôi là Washington. Bố mẹ tôi vốn có óc hài hước mà.

- Vậy thì thưa ngài Washington, ngài có thể cho tôi biết bà ấy hiện sống ở đâu không?

Ông già lấy từ túi ra một chiếc khăn mùi soa rồi lau kính.

- Tôi xin nhắc lại câu hỏi đầu tiên của tôi: tại sao một người trẻ tuổi, ăn mặc lịch sự, không chơi cá ngựa như anh lại muốn gặp loại người như Costa?

Tôi đã quá quen thuộc những tình huống như thế này. Tôi lấy ví rút ra tờ hai mươi đô và nhìn ông già. Ông ta đeo ngay kính lên, nhìn tờ giấy bạc, rồi nhìn tôi.

- Tôi biết ngay anh bạn trẻ là người thông minh mà.

- Vậy tôi có thể tìm bà Costa ở đâu? – tôi nhắc lại.

- Một câu hỏi tuyệt vời: tìm ở đâu? Tôi muốn trước hết phải có cái mà anh đang cầm trong tay đã. Thật lòng tôi không biết bà ta ở đâu. Nhưng tôi có thể kể cho anh một số chuyện về cuộc đời bà ấy. Anh có muốn nghe không?

Tôi đặt tờ giấy bạc xuống trước mặt ông già. Ông xem xét một lúc, rồi cầm nhét luôn vào túi áo.

- Bây giờ ta sẽ nói chuyện công việc, - Ông ta mỉm cười nói. – Anh hỏi tôi là bà Costa hiện ở đâu đúng không?

- Đúng, thưa ngài Washington. Ông có thể nói gì về bà ấy?

- Tôi đề nghị anh đừng gọi tôi là ngài Washington nữa. Cứ gọi tôi là Wash như mọi người ở đây vẫn gọi.

- Cũng được thôi. Vậy là bà ta đã sống ở đây và bây giờ đã chuyển nơi khác?

- Đúng thế.

- Bà ta đã sống ở đây bao lâu?

- Khoảng hai mươi năm trước, bà ta tới đây cùng một đứa con trai còn bé tí. Lúc đó bà ta mới mười bảy mười tám tuổi gì đấy. Bà ta thuê của tôi hai căn phòng đẹp nhất và xưng tên là Stella Costa, nhưng tôi có cảm tưởng đó không phải là tên thật.

- Điều gì khiến ông nghĩ như vậy?

- Chủ một ngôi nhà cho thuê buộc phải thận trọng, - Ông ta nhìn tôi cười tinh quái. – Khi bà ta ra ngoài, thằng bé khóc tôi có ghé vào xem có chuyện gì với thằng bé. Tôi có chìa khóa vạn năng mà. Thực ra chẳng có chuyện gì nghiêm trọng cả, nhưng tôi thấy một phong bì trong sọt đựng giấy tờ đề gửi cho bà Stella Jackson. Vì vậy tôi nghĩ rằng bà ta đã xưng một cái tên khác.

- Bà ta tự kiếm sống chứ?

- Tất nhiên rồi! Bà ta đẹp lắm. Rất đẹp. Bà ấy biểu diễn thoát y vũ trong nhiều hộp đêm.

- Thế vào những giờ bà ta làm việc, thằng bé thì sao?

- Bà ta toàn làm việc về đêm, nên thằng bé không có vấn đề gì.

- Chuyện này kéo dài khoảng bao lâu?

- Khoảng năm năm. Tiền nhà trả rất nghiêm chỉnh. Hầu như bà ta ngủ suốt ngày. Chẳng chăm lo gì cho thằng bé, vậy mà nó vẫn sống.

- Thằng bé có đi học không?

- Có chứ. Điều này có thể làm cho anh ngạc nhiên. Nhưng ở Secomb này có một trường tốt lắm. Johnny đi học ở đó. Nó là một đứa bé rất ngoan. Có thể hơi ẻo lả một chút, nhưng tôi rất quý nó. Khốn khổ là chuyện xảy ra với mẹ nó!

- Chuyện gì vậy?

- Vì Costa không kiếm được nhiều tiền, bà ta phải đưa cả đàn ông về nhà. Johnny là mối phiền phức của họ. Bà ta phải cho nó lang thang ngoài phố, đợi cho bạn trai của bà ta đi về mới được về. Thằng bé nói với tôi rằng nếu có dịp nó sẽ bỏ đi. Tôi bỏ ngoài tai, xem như chuyện bực bội của trẻ con. Thế rồi năm nó chín tuổi, nó bỏ đi thật. Một ngày sau hôm nó bỏ đi bà Costa hỏi tôi có thấy nó không. Tôi có cho bà ta một bài thuyết giáo ngắn về phận sự của người mẹ, nhưng bà ta không thèm nghe. Bà ta bảo tôi rằng thoát được nó là may, bà ta đã khổ vì nó lắm rồi. (Ông già vuốt mũi và lắc đầu). Bà ấy không có tình mẫu tử.

- Thế bà ấy đi khỏi đây khi nào?

- Khoảng hai năm sau Johnnỵ Hợp đồng cuối cùng của bà ấy là với Câu lạc bộ Skin.

- Bà ấy có để lại địa chỉ không?

- Trong cái nghề của tôi, người ta không bao giờ lưu tâm đến thư từ vì vậy tôi không hỏi. Cứ trả tiền thuê phòng xong, ai muốn đi đâu thì đi.

- Ông có bao giờ nói chuyện với Johnny về bố của nó không?

- Chỉ có một lần. Tôi chỉ chuyện vãn với nó lúc nó ăn. Nó có nói với tôi rằng bố nó là người lính giỏi và dũng cảm nhất trong quân đội. Hồi đó nó mới bảy tuổi mà. Anh biết chuyện bọn trẻ con rồi đấy. Tôi chẳng bận tâm làm gì, nhưng cảm thấy thương nó. Tôi nghĩ chắc nó là con trai một người lính đã tằng tịu với Stella.

Tôi có cảm giác đã moi hết thông tin từ ông già này. Tôi không biết được thông tin gì nhiều, nhưng vẫn phải tìm Costa.

- Thế Câu lạc bộ Skin ở đâu? – tôi hỏi và đứng dậy.

- Ở phía đông Secomb Road. Trông coi Câu lạc bộ này là một người Mêhicô, tên Edmundo Raiz. Nếu anh có ý định đến đó thì hãy giữ ví cho thật chặt.

- Cám ơn ông.

Câu lạc bộ Skin đặt dưới một tầng hầm, đây là nơi chuyên dành cho những kẻ bê tha, say khướt và khách du lịch.

Giờ này là vắng khách đối với tất cả các hộp đêm. Đồng hồ của tôi chỉ mười tám giờ năm. Tôi dừng chân xem bức ảnh phóng to của các cô gái thoát y vũ. Đó là nhóm ba cô gái da đen. Rồi tôi đi xuống một gian phòng lớn có nhiều bàn ghế, một quầy bar ở một đầu và một sàn diễn có dàn nhạc ở một đầu khác.

Một ngọn đèn đơn độc treo trên quầy bar và một người đàn ông đang đứng đó xem một tờ giấy. Chắc ông ta đang kiểm tra tổng thu nhập của ngày hôm trước. Người đàn ông này tóc đen với nước da sạm nắng và hàng ria mép mảnh. Trông anh ta nhỏ con, nhưng béo tròn với đôi vai lực lưỡng. Anh ta ngẩng lên nhìn tôi khi tôi đi qua phòng tiến tới chỗ anh ta.

- Quầy bar đóng rồi, - anh ta nói cụt ngủn.

- Tôi không cần uống, - tôi nói. – Tôi là Diek Wallace, làm việc chỗ các ông Benbolt và Howard. Tôi cần một số thông tin.

Vẻ mặt anh ta sáng hẳn lên.

- Thế hả? Thông tin gì?

- Chúng tôi muốn tìm bà Stella Costạ Hình như trước kia bà ta có làm việc ở đây.

- Howard và Benbolt à? – anh ta nheo mắt hỏi.

- Thì tôi đã nói rồi.

- Anh tìm bà ta làm gì?

- Bà ấy được nhận một khoản thừa kế nhỏ, - tôi nói dối, - và chúng tôi muốn thanh lý tài sản kế thừa.

- Tài sản thừa kế lớn cỡ chừng nào?

- Cũng nhỏ thôi. Đối với ông đó chỉ là món tiêu vặt, ông Raiz ạ. Nhưng chúng tôi muốn thanh lý tài sản đó. Ông có thể cho tôi biết tìm bà ấy ở đâu không?

Đúng lúc đó, một cô gái trẻ từ một buồng cạnh dàn nhạc ở đầu kia của phòng bước ra. Cô đi ngang qua phòng với những bước dài duyên dáng. Tôi phản ứng như một thanh nam châm đặt trước một mẩu sắt. Khoảng hai mốt hai hai, cao hơn tầm vóc trung bình, cô gái có mái tóc đen mượt và dài. Cô mặc một chiếc quần bò bó sát và một chiếc áo phông vừa khít làm nổi rõ bộ ngực căng phồng. Raiz bực tức nhìn cô gái.

- Xéo ngay, Bêbê, - anh ta nói. – Tôi đang bận.

Cô ta tới gần quầy bar và mỉm cười với tôi. Đôi môi cô gái tô đỏ chót vẻ mùi mẫn và hàm răng trắng đều đặn.

- Grosso buộc phải làm dữ, - cô nói. – Hãy tha thứ cho anh ấy. Anh là ai?

- Dirk Wallace.

Nhìn cô gái tôi tự nhủ rằng qua một đêm trên giường với cô ta chắc phải đi cấp cứu chứ không chơi, nhưng cũng bõ lắm.

- Chào Dirk. – (Cô ưỡn ngực về phía tôi, nhăn mặt với Raiz rồi vòng qua quầy bar chỉ chai Cutty Sark). Hãy phục vụ tôi và Dirk đi và đừng có cau có như thú dữ thế, Eđy.

- Bêbê Mansel đây là hiện thân của sex. Cô ta ngủ với tất cả ở đây, chỉ trừ có voi thôi, - Raiz giải thích, rồi lấy chai uytski rót ra ba lỵ – Đừng có để ý đến cô tạ Trí tuệ của cô ấy chỉ giới hạn trong cặp đùi thôi.

- Đừng có nghe mồm anh tạ (Bêbê cười ré lên). Vì chưa bao giờ sờ được tới đó nên anh ta tức tối đấy mà.

Cô ta nâng cốc và uống cạn một hơi.

- Bây giờ thì xéo đi, - Raiz hạ giọng nói nhưng đầy vẻ hăm dọa. Chúng tôi đang nói chuyện công việc.

- Tôi nghe hết rồi. Anh chàng đẹp trai này muốn biết Stella ở đâu chứ gì. Nói cho anh ấy biết đi, Eđy.

Tất cả diễn ra nhanh tới mức tôi không kịp can thiệp. Với tốc độ của con rắn côbra, Raiz tát cô gái rất mạnh và xô cô ngã dúi vào hàng chai lọ trên giá. Rồi hắn ta tóm lấy thắt lưng cô gái quẳng qua quầy làm văng cả ly rượu của tôi. Cô gái lồm cồm bò dậy, chạy thục mạng tới cái cửa ở cạnh dàn nhạc, rồi biến mất. Tôi há hốc mồm kinh ngạc. Raiz nhìn tôi cười.

- Đừng để ý làm gì. Trong cái nghề của tôi phải biết cách xử sự với lũ con gái. Stella Costa hả? Rất thú vị đấy. Bà ấy đã làm việc khá lâu ở chỗ tôi. Đó là một vũ nữ thoát y tuyệt vời. Con bé Bêbê lúc nãy cũng không đến nỗi tồi, nhưng vẫn còn thiếu một cái gì đấy. Để một cô gái gây được ấn tượng mạnh, cần phải có chút xíu gì nữa cơ.

- Tôi cũng ngờ vậy. Thế có thể tìm bà Stella Costa ở đâu?

- Hượm đã nào. (Raiz nhìn tôi cười khẽ). Howard và Benbolt à? Chắc hai ông này phải lăn trên vàng ấy nhỉ. Tiền thưởng bao nhiêu đây?

- Không có tiền thưởng nào hết, tôi nói trước với ông như vậy. Chúng tôi chỉ muốn thanh lý tài sản thừa kế thôi mà.

- Thế ai để lại cho bà ta số tiền đó?

- Người ta không cho tôi biết. Mà điều đó có ý nghĩa gì. Tôi có thể tìm bà ta ở đâu?

- Tôi không biết. Bà ta đã đi khỏi đây một năm nay rồi. Mà cũng phải thôi, ai cũng chỉ có một thời. (Anh ta uống một hơi và lắc đầu). Dễ chừng bà ta ngoài bốn chục rồi còn gì. Khách hàng của tôi giờ chỉ thích những cô gái trẻ thôi.

- Cô ta cứ thế bỏ đi thôi à?

- Thực ra tôi đã thuyết phục bà ấy. (Anh ta lại cười khẽ).

- Bà ấy có nói đi đâu không?

Anh ta tỏ vẻ khó chịu.

- Tôi cũng không hỏi.

Lại một manh mối nữa tan vỡ, tôi nghĩ.

- Dù sao cũng cám ơn, ông Raiz ạ. Thôi thì bây giờ đành phải đăng thông báo trên báo vậy.

Cái nhìn của Raiz trâng tráo.

- Ai hơi đâu để ý đến một con điếm?

- Bà ta thực sự là vậy sao?

- Anh có cần một bức ảnh không?

- Chúng tôi sẽ cho đăng cùng với thông báo. Sẽ là quảng cáo cho cơ sở của ông đấy. “Stella Costa vũ nữ thoát y và gái điếm đã từng làm việc ở Câu lạc bộ Skin làm ơn liên lạc với…”. (Tôi nhìn Raiz cười). Ông thừa biết tiếp sau như thế nào rồi.

- Đừng có nói đến tên Câu lạc bộ của tôi vào đó, - Raiz nói đầy vẻ bực bội.

- Tại sao lại không. Rất nhiều khách du lịch muốn biết tìm những vũ nữ kiêm gái điếm ở đâu là gì. Chuyện này tốt cho việc kinh doanh của ông lắm đấy, ông Raiz ạ.

Anh ta ngả người ra phía trước nhìn như nuốt sống tôi.

- Nếu anh nhắc đến cơ sở của tôi, tôi sẽ đưa anh ra tòa.

- Đồng ý thôi. Khi đó tôi sẽ đi hỏi cảnh sát, chắc họ sẽ cho tôi nhiều thông tin hơn ông kia.

- Xéo khỏi đây ngay.

- Bình tĩnh nào, ông Raiz. Chắc ông biết bà ta hiện đang ở đâu. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ không đăng báo và đi hỏi cảnh sát nữa.

Gã lưỡng lự rồi nhún vai.

- Bà ấy chết rồi. Bà ấy say và bị một thằng tập lái xe cán chết.

- Thôi đi ông Raiz, ông có thể bịa hay hơn thế nữa kia. Tôi thừa sức kiểm tra điều ông nói. Hãy động não đi. Nào, Stella ở đâu?

- Hay lắm thằng khốn. Mày muốn thế hả? Tao sẽ cho mày một bài học nhớ đời.

Chắc là hắn có một hệ thống báo động trong quầy. Tôi nghe thấy tiếng chuông ở xạ Rồi chiếc cửa ở cạnh dàn nhạc mở toang và hai thằng nhọ mà tôi gặp hồi nào xuất hiện. Đứa nào cũng lăm lăm con dao trong taỵ Từ lần đầu gặp chúng, tôi bao giờ cũng mang theo súng trong người. Khi chúng tới gần, tôi rút phắt súng ra. Đây là một trong số nhiều điều mà cha tôi bắt tôi học và tôi đã thành thạo.

Nhìn thấy khẩu 38 ly trên tay tôi, chúng đứng sững lại như húc phải bức tường bê tông.

- Chào mấy thằng hôi, - tôi nói. – Tao sẽ bắn nát sọ chúng mày. Cứ thử tiến đến gần đây.

Tôi liếc thấy Raiz chìa tay với lấy chai Cutty Sark. Đúng lúc hắn định nện vào tôi, tôi giáng nòng súng đúng vào giữa bộ mặt nhăn nhó của hắn. Hắn đổ sập xuống bên trong quầy. Tôi cười với hai gã da đen vẫn đứng như trời trồng.

- Xéo ngay! – tôi hét. – Nhanh!

Chúng biến mất ngay lập tức và đóng sập cửa lại.

Thận trọng tôi đi giật lùi ra khỏi phòng, leo lên mấy bậc thang, rồi chuồn ra đường phố đầy người.

Bêbê đã đợi tôi ở ngoài, vẫn với chiếc quần bò và chiếc áo phông bó chặt cứng. Cô ta mỉm cười và khoác lấy tay tôi.

- Đưa em về nhà nhé, cưng. Ta sẽ tha hồ mà chuyện vãn.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase    Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase  I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Vụ giết người bí ẩn _James H. Chase
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» vẫn nhớ người của ngô trường
» Thế nào là người đàn ông hoàn hảo?
» Thix 1 nguoi...
» BÀI TOÁN CỦA NGƯỜI ĂN MÀY
» người thik admin

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
bolac-a4-forever :: Chia Sẽ và Học Hỏi :: Truyện,Thơ,Văn Học,Tiểu Thuyết-
Chuyển đến